Khi hồi tưởng câu chuyện
đó, Mary còn nhớ vào buổi tối ấy khi cô còn niên thiếu, cô đã thấy
cha cô im lặng đến với cô. Dường như
chính cô, chứ không phải cha cô, mới là người đáng trách về cuộc
sống của hai cha con. Người nông phu
mà cô gặp trên cầu không hề thấy cha cô lạnh lùng. Đó là vì ông ấy là một người có thái
độ ôn tồn và rộng lượng đối với người đã chăm sóc lúc ông ốm đau bất
hạnh. Cha cô đã nói người nông phu
ấy biết cách làm cha, và Mary còn nhớ hai thằng bé ngồi câu bên lạch
nước đã gọi cô một cách thân thiện như thế nào khi cô quay đi vào bóng tối. “Cha của chúng biết
cách làm cha vì hai đứa con biết cách bày tỏ tình cảm của chúng
với cha mình,” cô thầm nghĩ, và thấy mình thật có lỗi. Cô cũng thấy mình muốn bày tỏ tình
cảm với cha. Cô quyết sẽ làm thế
trước khi đêm tàn. Vào một buổi tối cách đây đã lâu, khi cô ngồi cạnh cha trên đường về nhà, thêm một
lần nữa ông lại cố gắng phá vỡ bức tường đã ngăn cách hai cha con,
nhưng chỉ hoài công. Mấy cơn mưa to
làm các lạch nước họ phải vượt qua dâng cao, và khi họ gần đến thị
trấn, cha cô dừng ngựa nơi cây cầu gỗ.
Con ngựa bồn chồn nhảy dựng, cha cô phải giữ dây cương thật chặt
và thỉnh thoảng ông nói chuyện với nó.
Dưới cầu dòng nước chảy xiết kêu ồ ồ, và bên đường là cả một
hồ nước ngập kín cánh đồng phẳng trải dài. Lúc ấy mặt trăng đã hiện ra sau đám mây
và ngọn gió thổi qua mặt nước tạo nên những làn sóng nho nhỏ. Mặt hồ nước ngập phủ đầy những ánh
sáng lung linh. “Cha sẽ kể cho con
nghe về mẹ con và cha,” ông trầm giọng nói; nhưng ngay khi ấy các thanh
gỗ của cây cầu bắt đầu kêu rắc rắc thật nguy hiểm, và con ngựa
phóng tới trước. Khi cha cô trì kéo
lại được con thú đang hoảng sợ thì họ đã vào đến phố, và bản chất
im lặng nhút nhát của ông lại trở lại.
Mary ngồi
trong bóng tối bên cửa sổ văn phòng, và cô thấy cha cô đang đánh xe
vào phố. Khi con ngựa của ông đã
được dẫn đi vào chuồng rồi, theo thói quen ông vẫn chưa đi đến chỗ
cầu thang dẫn lên văn phòng, mà ngần ngừ giây lát trong bóng tối
trước cửa nhà vựa. Có một lần ông
đã bắt đầu băng qua đường, nhưng rồi ông lại quay vào trong bóng tối.
Đám đàn ông nãy
giờ ngồi nói chuyện nho nhỏ với nhau suốt hai tiếng đồng hồ bỗng
nhiên sinh sự. Jack Fisher, người
lính gác đêm của thị trấn, kể cho mọi người nghe trận chiến mà anh
ta từng tham gia trong thời Nội chiến, và Duke Yetter bắt đầu chế nhạo
ông ta. Người lính gác đêm nổi xung
lên. Cầm cây ba toong ông ta khệnh
khạng đi tới đi lui. Tiếng Duke
Yetter nói oang oang cắt ngang giọng nói giận dữ the thé của người đàn
ông nạn nhân của hắn. “Đáng lẽ ông
phải đo ván thằng cha đó, tôi nói cho ông biết, Jack à. Đúng thế, nói xin lỗi à, đáng lẽ ông
phải đo ván tên giặc đó, và khi đo ván hắn được rồi, ông phải đánh
cho tên lì lợm đó mửa cả mật xanh ra.
Tôi mà là ông tôi đã làm thế,” Duke nói oang oang và cười hô
hố. “Mày ăn nói lỗ mãng quá,”
người lính gác đêm trả lời trong giận dữ nhưng không biết phải làm
sao.
Người lính
già đi ra đường, bỏ sau lưng tiếng cười của Duke và đám bạn của
hắn. Barney Smith, sau khi đã cất
ngựa của bác sĩ vào chuồng rồi, trở ra đóng cửa trại ngựa. Chiếc đền treo trên cửa đu đưa qua
lại. Bác sĩ Cochran bắt đầu
băng qua đường, khi đến chân cầu thang, ông quay lại nói lớn với mấy
người đàn ông. “Ngủ ngon nhé mấy anh!” ông gọi to giọng vui vẻ. Làn gió nhẹ mùa hè thổi bay một lọn
tóc lên gò má của Mary và cô ngồi bật dậy như thể có một bàn tay
nào đó trong bóng tối chạm vào người cô.
Đã hàng trăm lần cô thấy cha cô đánh xe ngựa trở về vào lúc
trời tối như thế, nhưng trước đây ông không hề nói gì với những người
đàn ông lai vãng cạnh cửa trại ngựa. Cô nửa ngờ nửa tin rằng đó
không phải là cha cô mà là một người đàn ông nào khác đang đi lên cầu
thang.
Có bước chân
kéo lê nặng nề vang lên trên các bậc thang bằng gỗ và Mary nghe thấy
tiếng cha cô để cái túi y khoa hình vuông nhỏ mà ông luôn luôn xách
theo xuống bậc tam cấp. Tâm trạng
vui vẻ lạ kỳ của ông vẫn còn ,
nhưng đầu óc ông lại rối mù hỗn loạn.
Mary tưởng tượng thấy bóng ông đen ngòm hiện ra nơi ngạch
cửa. “Bà ấy đã sanh được một đứa
con,” một giọng nói vang lên nơi thềm cửa.
“Chuyện ấy xảy ra cho ai vậy nhỉ?
Nó xảy ra cho Ellen, hay cho người đàn bà kia hay cho con bé Mary
của mình?”
Từ môi ông tuôn
ra một tràng chữ, một lời phản đối.
“Ai có con vậy? Tôi muốn
biết. Ai có con? Đời sống không như ý mình muốn. Tại sao trẻ nhỏ cứ ra đời hoài?” ông tự hỏi.
Môi vị bác
sĩ bật ra tiếng cười và cô con gái chồm tới trước, tay cô vịn chặt
hai bên thành ghế. Ông lại nói: “Một
đứa nhỏ mới ra đời. Ừ cũng lạ đôi
tay mình đã giúp cho đứa bé chào đời trong lúc cái chết đang cận kề
mình đây.”
Bác sĩ
Cochran nện chân lên sàn gỗ cầu thang.
“Chân mình lạnh và tê vì chờ đợi một mạng sống đến từ một
mạng sống,” ông nói giọng nặng nề. “Bà ấy vật vã và bây giờ mình cũng
phải vật vã.”
Sau tiếng nện
chân và lời nói mệt mỏi nặng nề thốt ra từ môi người đàn ông mắc bệnh bỗng im như tờ. Dưới phố lại vang lên tiếng cười hô hố
của Duke Yetter.
Rồi bác sĩ
Cochran bỗng bật ngã xuống những bậc thang hẹp dẫn ra đường lộ. Ông không hề kêu lên một tiếng, chỉ có
tiếng giầy lạch cạch chạm lên bậc thang và kết thúc với tiếng thân
người rơi xuống thật kinh hoàng.
Mary không rời
ghế. Mắt nhắm nghiền cô chờ
đợi. Tim cô đập mạnh. Toàn thân cô yếu lả đi, và từ đầu đến
chân cô cảm thấy rờn rợn như thể có những con vật tí hon chân đầy
lông mềm đang bò khắp người cô.
Chính Duke
Yetter đã bế người chết lên cầu thang và đặt ông trên giường trong một
căn phòng phía sau phòng mạch. Một
trong những người đàn ông khi nãy ngồi với anh ta trước cửa trại ngựa
bước theo sau, giơ tay lên trời rồi buông xuống đầy lo âu. Giữa hai ngón tay anh ta có điếu thuốc
cháy dở với tàn lửa nhảy múa trong bóng tối.
1921
Hết
No comments:
Post a Comment
Note: Only a member of this blog may post a comment.