Wednesday, January 1, 2020

Những Ngọn Đèn Không Được Thắp Sáng (3)--Truyện ngắn của Sherwood Anderson (1876-1941)


Khi hồi tưởng câu chuyện đó, Mary còn nhớ vào buổi tối ấy khi cô còn niên thiếu, cô đã thấy cha cô im lặng đến với cô.  Dường như chính cô, chứ không phải cha cô, mới là người đáng trách về cuộc sống của hai cha con.  Người nông phu mà cô gặp trên cầu không hề thấy cha cô lạnh lùng.  Đó là vì ông ấy là một người có thái độ ôn tồn và rộng lượng đối với người đã chăm sóc lúc ông ốm đau bất hạnh.  Cha cô đã nói người nông phu ấy biết cách làm cha, và Mary còn nhớ hai thằng bé ngồi câu bên lạch nước đã gọi cô một cách thân thiện như thế nào khi cô quay đi vào bóng tối.  “Cha của chúng biết cách làm cha vì hai đứa con biết cách bày tỏ tình cảm của chúng với cha mình,” cô thầm nghĩ, và thấy mình thật có lỗi.  Cô cũng thấy mình muốn bày tỏ tình cảm với cha.  Cô quyết sẽ làm thế trước khi đêm tàn.  Vào một buổi tối cách đây đã lâu, khi cô ngồi cạnh cha trên đường về nhà, thêm một lần nữa ông lại cố gắng phá vỡ bức tường đã ngăn cách hai cha con, nhưng chỉ hoài công.  Mấy cơn mưa to làm các lạch nước họ phải vượt qua dâng cao, và khi họ gần đến thị trấn, cha cô dừng ngựa nơi cây cầu gỗ.  Con ngựa bồn chồn nhảy dựng, cha cô phải giữ dây cương thật chặt và thỉnh thoảng ông nói chuyện với nó.  Dưới cầu dòng nước chảy xiết kêu ồ ồ, và bên đường là cả một hồ nước ngập kín cánh đồng phẳng trải dài.  Lúc ấy mặt trăng đã hiện ra sau đám mây và ngọn gió thổi qua mặt nước tạo nên những làn sóng nho nhỏ.  Mặt hồ nước ngập phủ đầy những ánh sáng lung linh.  “Cha sẽ kể cho con nghe về mẹ con và cha,” ông trầm giọng nói; nhưng ngay khi ấy các thanh gỗ của cây cầu bắt đầu kêu rắc rắc thật nguy hiểm, và con ngựa phóng tới trước.  Khi cha cô trì kéo lại được con thú đang hoảng sợ thì họ đã vào đến phố, và bản chất im lặng nhút nhát của ông lại trở lại.
Mary ngồi trong bóng tối bên cửa sổ văn phòng, và cô thấy cha cô đang đánh xe vào phố.  Khi con ngựa của ông đã được dẫn đi vào chuồng rồi, theo thói quen ông vẫn chưa đi đến chỗ cầu thang dẫn lên văn phòng, mà ngần ngừ giây lát trong bóng tối trước cửa nhà vựa.  Có một lần ông đã bắt đầu băng qua đường, nhưng rồi ông lại quay vào trong bóng tối.
Đám đàn ông nãy giờ ngồi nói chuyện nho nhỏ với nhau suốt hai tiếng đồng hồ bỗng nhiên sinh sự.  Jack Fisher, người lính gác đêm của thị trấn, kể cho mọi người nghe trận chiến mà anh ta từng tham gia trong thời Nội chiến, và Duke Yetter bắt đầu chế nhạo ông ta.  Người lính gác đêm nổi xung lên.  Cầm cây ba toong ông ta khệnh khạng đi tới đi lui.  Tiếng Duke Yetter nói oang oang cắt ngang giọng nói giận dữ the thé của người đàn ông nạn nhân của hắn.  “Đáng lẽ ông phải đo ván thằng cha đó, tôi nói cho ông biết, Jack à.  Đúng thế, nói xin lỗi à, đáng lẽ ông phải đo ván tên giặc đó, và khi đo ván hắn được rồi, ông phải đánh cho tên lì lợm đó mửa cả mật xanh ra.  Tôi mà là ông tôi đã làm thế,” Duke nói oang oang và cười hô hố.  “Mày ăn nói lỗ mãng quá,” người lính gác đêm trả lời trong giận dữ nhưng không biết phải làm sao.
Người lính già đi ra đường, bỏ sau lưng tiếng cười của Duke và đám bạn của hắn.  Barney Smith, sau khi đã cất ngựa của bác sĩ vào chuồng rồi, trở ra đóng cửa trại ngựa.  Chiếc đền treo trên cửa đu đưa qua lại.  Bác sĩ Cochran bắt đầu băng qua đường, khi đến chân cầu thang, ông quay lại nói lớn với mấy người đàn ông.  “Ngủ ngon nhé mấy anh!” ông gọi to giọng vui vẻ.  Làn gió nhẹ mùa hè thổi bay một lọn tóc lên gò má của Mary và cô ngồi bật dậy như thể có một bàn tay nào đó trong bóng tối chạm vào người cô.  Đã hàng trăm lần cô thấy cha cô đánh xe ngựa trở về vào lúc trời tối như thế, nhưng trước đây ông không hề nói gì với những người đàn ông lai vãng cạnh cửa trại ngựa. Cô nửa ngờ nửa tin rằng đó không phải là cha cô mà là một người đàn ông nào khác đang đi lên cầu thang. 
Có bước chân kéo lê nặng nề vang lên trên các bậc thang bằng gỗ và Mary nghe thấy tiếng cha cô để cái túi y khoa hình vuông nhỏ mà ông luôn luôn xách theo xuống bậc tam cấp.  Tâm trạng vui vẻ lạ kỳ của ông  vẫn còn , nhưng đầu óc ông lại rối mù hỗn loạn.  Mary tưởng tượng thấy bóng ông đen ngòm hiện ra nơi ngạch cửa.  “Bà ấy đã sanh được một đứa con,” một giọng nói vang lên nơi thềm cửa.  “Chuyện ấy xảy ra cho ai vậy nhỉ?  Nó xảy ra cho Ellen, hay cho người đàn bà kia hay cho con bé Mary của mình?”
Từ môi ông tuôn ra một tràng chữ, một lời phản đối.  “Ai có con vậy?  Tôi muốn biết.  Ai có con?  Đời sống không như ý mình muốn.  Tại sao trẻ nhỏ cứ ra đời hoài?”  ông tự hỏi.
Môi vị bác sĩ bật ra tiếng cười và cô con gái chồm tới trước, tay cô vịn chặt hai bên thành ghế.  Ông lại nói: “Một đứa nhỏ mới ra đời.  Ừ cũng lạ đôi tay mình đã giúp cho đứa bé chào đời trong lúc cái chết đang cận kề mình đây.”
Bác sĩ Cochran nện chân lên sàn gỗ cầu thang.  “Chân mình lạnh và tê vì chờ đợi một mạng sống đến từ một mạng sống,” ông nói giọng nặng nề. “Bà ấy vật vã và bây giờ mình cũng phải vật vã.”
Sau tiếng nện chân và lời nói mệt mỏi nặng nề thốt ra từ môi người đàn ông mắc bệnh bỗng im như tờ.  Dưới phố lại vang lên tiếng cười hô hố của Duke Yetter. 
Rồi bác sĩ Cochran bỗng bật ngã xuống những bậc thang hẹp dẫn ra đường lộ.  Ông không hề kêu lên một tiếng, chỉ có tiếng giầy lạch cạch chạm lên bậc thang và kết thúc với tiếng thân người rơi xuống thật kinh hoàng.
Mary không rời ghế.  Mắt nhắm nghiền cô chờ đợi.  Tim cô đập mạnh.  Toàn thân cô yếu lả đi, và từ đầu đến chân cô cảm thấy rờn rợn như thể có những con vật tí hon chân đầy lông mềm đang bò khắp người cô.
Chính Duke Yetter đã bế người chết lên cầu thang và đặt ông trên giường trong một căn phòng phía sau phòng mạch.  Một trong những người đàn ông khi nãy ngồi với anh ta trước cửa trại ngựa bước theo sau, giơ tay lên trời rồi buông xuống đầy lo âu.  Giữa hai ngón tay anh ta có điếu thuốc cháy dở với tàn lửa nhảy múa trong bóng tối.
1921     
Hết

No comments:

Post a Comment

Note: Only a member of this blog may post a comment.