Herman Melville
(1819-1891)
Giống như Hawthorne, Melville thuộc dòng dõi giàu có thời xưa, rồi đột ngột gia đình ông rơi vào cảnh túng thiếu khi người cha qua đời. Mặc dù lớn lên trong một gia đình gốc quý tộc có truyền
thống đầy tự hào và mặc dù ông làm việc siêng năng, Melville vẫn phải chịu cảnh
nghèo khó và ông không được học lên đại học.
Năm 19 tuổi ông bắt đầu sống đời thủy thủ lênh đênh trên biển cả. Từ
kinh nghiệm bản thân ông tất nhiên quan tâm
nhiều hơn đến đời sống của thủy thủ, và phần lớn các tiểu
thuyết đầu tay của ông đều dựa trên những chuyến hải trình ông
trải nghiệm. Qua các tác phẩm này chúng ta thấy một
chàng trai trẻ Melville đầy kinh nghiệm mang tư tưởng dân chủ, căm ghét độc
tài và bất công. Tác phẩm đầu tay của ông, quyển Typee, dựa trên kinh nghiệm ông sống cùng dân trong bộ lạc Taipis hiếu khách nhưng bị gán là ăn
thịt người ở quần đảo Marquesas* phía Nam Thái bình dương. Quyển
truyện ca ngợi người dân đảo và
cuộc sống hài hòa cùng thiên nhiên của họ, và phê phán các
nhà truyền đạo Thiên Chúa, những người Melville thấy còn kém
văn minh thực sự hơn so với thổ dân ở
miền đất họ đến để cải đạo.
Tác phẩm Moby Dick,
tức Con Cá Voi Trắng, kiệt tác của
Melville, là một trường thiên tiểu thuyết kể về chiếc tàu săn cá voi Pequod,
và viên thuyền trưởng Ahab, “một kẻ
vô đạo nhưng lại giống như ông thần,” chỉ vì luôn bị ám ảnh
bởi tham vọng săn đuổi
cho được con cá voi trắng Moby Dick mà ông đã đưa cả chiếc tàu
cùng đoàn thủy thủ lao vào chỗ chết. Là một câu chuyện mạo
hiểm hiện thực, tác phẩm này chứa đựng nhiều suy tư chiêm
nghiệm
sâu sắc của tác giả về kiếp người. Con cá
voi, một biểu tượng khổng lồ, tượng trưng cho sự săn đuổi tri thức. Xuyên suốt
tác phẩm thường có những đoạn mô tả và phân loại cá voi cùng kỹ nghệ săn bắt cá
voi rất hiện thự sinh động, nhưng những đoạn như vậy còn mang ý nghĩa tượng
trưng. Trong Chương 15 “Cái Đầu của Giống Cá
Voi Cần Săn Bắt**” người kề̉ chuyện nói rằng giống cá voi này là loài sống khổ hạnh,
còn giống cá voi tinh trùng*** là giống theo phái Platon, ý nói về hai trường phái triết học cổ điển Tây phương.
---
***Sperm là cách viết ngắn của chữ spermaceti. Nguyên lúc đầu người ta tưởng chất hơi nhờn, giống như sáp, được tìm thấy trong đầu loài cá voi này là tinh dịch của nó, nên họ mới đặt tên cho giống cá này như vậy. Vào thế kỷ 18 và 19 những người đi săn cá voi vùng New England đi tìm kiếm loài cá voi này để đánh bắt, nhằm lấy chất dầu nhờn này trong đầu của nó vì đấy là thứ dầu bôi trơn đặc biệt tốt.
The name sperm whale is a truncation of spermaceti whale. Spermaceti, originally mistakenly identified as the whales' semen, is the semi-liquid, waxy substance found within the whale's head
---
*The Marquesas Islands: một nhóm quần đảo núi lửa của Pháp ở Nam Thái bình dương.
**Đây
là giống cá voi da màu tối sẫm như màu đen mà các tàu đánh
bắt cá voi mong muốn bắt được. Giống cá này gồm ba loại đều
thuộc họ cá Balaenidae, có đầu hình cung
(bowhead): giống ở Bắc Đại tây dương, giống ở Bắc Thái bình
dương, và giống ở miền Nam. Chúng di chuyển chậm và sau khi bị
giết chết chúng nổi trên mặt nước vì có lớp mỡ dầy .
Right whales or black whales are three species of large baleen whales of the genus Eubalaena: the North Atlantic right whale, the North Pacific right whale and the Southern right whale. They are classified in the family Balaenidae with the bowhead whale.
Right whales or black whales are three species of large baleen whales of the genus Eubalaena: the North Atlantic right whale, the North Pacific right whale and the Southern right whale. They are classified in the family Balaenidae with the bowhead whale.
The
right whale got its name because it was the "right" whale to hunt—it
was slow moving and floated after being killed. This mother and calf are part of the western population of North Atlantic right whales. Southern and the two species of northern right whales live in temperate Atlantic or Pacific waters, often near the coast. Right whales were named by whalers who identified them as the “right” whale to kill on a hunt. ... Because of their thick blubber, right whales also float accommodatingly after they have been killed.
***Sperm là cách viết ngắn của chữ spermaceti. Nguyên lúc đầu người ta tưởng chất hơi nhờn, giống như sáp, được tìm thấy trong đầu loài cá voi này là tinh dịch của nó, nên họ mới đặt tên cho giống cá này như vậy. Vào thế kỷ 18 và 19 những người đi săn cá voi vùng New England đi tìm kiếm loài cá voi này để đánh bắt, nhằm lấy chất dầu nhờn này trong đầu của nó vì đấy là thứ dầu bôi trơn đặc biệt tốt.
The name sperm whale is a truncation of spermaceti whale. Spermaceti, originally mistakenly identified as the whales' semen, is the semi-liquid, waxy substance found within the whale's head
In
the 18th and 19th centuries, New England whalers sought out the Sperm
whale for the valuable spermaceti oil, which makes an exceptionally fine
lubricant.
---
Spermaceti (sperm oil), from which the whale derives its
name, was a prime target of the whaling industry, and was sought after for use in oil lamps,
lubricants, and candles. Ambergris, a solid waxy waste product sometimes present in
its digestive system, is still highly valued as a fixative in perfumes, among other uses.
Beachcombers look out for ambergris as flotsam.[8] Sperm
whaling was a major industry in the nineteenth century, immortalised in the
novel Moby
Dick. The species is protected by the International Whaling Commission
moratorium, and is listed as vulnerable by the International Union for
Conservation of Nature.
Mặc dù tiểu thuyết của Melville mang tính triết học, nó cũng đầy bi thương. Tuy rất dũng cảm anh
hùng, Ahab cuối cùng cũng phải chết và bị nguyền rủa. Thiên nhiên, dù thật đẹp, cũng dửng dưng và
có thể gây ra cái chết cho con gnười. Qua tác phẩm Moby Dick, Melville không đồng ý với tư
tưởng lạc quan của Emerson khi cho rằng con người có thể hiểu thiên nhiên. Moby Dick, con cá voi trắng khổng lồ, là một
hiện hữu bí ẩn huyền hoặc phủ trùm lên toàn bộ cuốn tiểu thuyết, cũng như nó
luôn là nỗi ám ảnh ngày đêm đối với Ahab.
Những sự kiện về loài cá voi và về ngành đánh bắt cá
voi không giải
thích gì cả về con cá Moby Dick; ngược lại, những sự kiện ấy
thường mang tính tượng trưng, và mỗi sự kiện lại có mối liên hệ tiềm tàng với
một sự kiện khác trong mạng lưới vũ trụ chằng chịt. Tuy vậy,
ý tưởng về sự tương liên chằng chịt
này (như Melville nói đến trong Chương “Sphinx”) không có nghĩa là
con người có
thể đọc được chân lý nơi thiên nhiên, như Emerson quan niệm. Ẩn sau những sự kiện được Melville tích lũy
trong tiểu thuyết này là một cái nhìn chúng ta khó lòng hiểu được --nhưng
không hề có giải thích nào để giúp chúng ta thấy cái nhìn đó là tốt hay xấu,
có nhân tính hay phi nhân tính.
Với cách nói ngụ ý bóng gió và nhìn sâu vào bên trong tâm hồn, tiểu
thuyết Moby Dick quả thật rất hiện đại.
Nói khác đi, tiểu thuyết này thường nói về chính nó. Melville hay bình luận về các tiến
trình hoạt động của trí não con người như việc viết, đọc và hiểu. Thí dụ, tác giả dành cả một chương sách khảo
sát cặn kẽ, và tìm cách phân loại, nhưng lại bỏ dở dang, ông cho rằng không có
gì vĩ đại có thể hoàn tất (“Hỡi Thượng Đế xin hãy giữ đừng để con hoàn thành việc gì
cả. Toàn
bộ quyển sách này chỉ là một
bản nháp –không, nói cho đúng nó là bản nháp của một bản
nháp. Ôi Thời gian, Sức mạnh, Tiền bạc, và Lòng kiên nhẫn”). Ý
niệm về
một bản thảo không hoàn hảo hay một bản nháp bị bỏ dở dang
của Melville là một khái niệm đương đại của thời chúng ta.
Ahab một mực tìm cách dựng lên hình ảnh một thế giới với những giá trị tuyệt đối, anh
hùng và phi thời gian, trong đó chàng giữ vị trí cao hơn tất cả mọi thủy thủ
của mình. Thật không khôn ngoan chút nào khi
chàng đòi hỏi phải có một văn bản hoàn tất, với câu trả lời. Nhưng qua tiểu thuyết này, ta thấy không hề có
văn bản hoàn tất nào cả, cũng như không hề có những câu trả lời cuối cùng, ngoại
trừ cái chết. Xuyên suốt tác phẩm đều mang âm hưởng ít nhiều của các trích dẫn trong văn học. Ahab,
tên một ông vua trong Kinh Cựu Ước mong muốn đạt được một kiến
thức toàn diện, như thánh thần, kiểu nhân vật Faust*
---
*
Faust,
còn gọi là Faustus, hoặc Bác sĩ Faustus, là nhân
vật chính của một trong số các huyền thoại dân gian và văn học
Tây phương, kể về một phù thủy hay nhà chiêm tinh bán linh hồn
cho quỷ để đổi lấy kiến
thức và quyền lực.
Faust, also called Faustus, or Doctor
Faustus, hero of one
of the most durable legends in Western folklore and literature, the story of a
German necromancer or astrologer who sells his soul to the devil in exchange
for knowledge and power.
https://www.britannica.com/topic/Faust-literary-character
Giống như Oedipus trong vở kịch của Sophocles đã phải trả
giá thê thảm vì tri thức lầm lạc của mình, Ahab đã bị mù, bị thương nơi
chân, và cuối cùng bị giết chết. Tác
phẩm Moby Dick kết thúc với chữ “mồ
côi.” Ishmael, người kể chuyện, là kẻ lang thang vô định như đứa trẻ mồ
côi. Cái tên Ishmael có nguồn gốc từ sách
Khải Huyền trong Kinh Cựu Ước, Ishmael là con của Abraham và Hagar (người hầu
của Sarah, vợ Abraham). Cả Ishmael và
Hagar đề bị Abraham đuổi vào rừng.
Ngoài ra cũng có những ví dụ khác nữa. Rachel (một trong số các bà vợ của Jacob) là
tên chiếc thuyền đã cứu Ishmael ở phần kết cuốn sách. Cuối cùng, con cá voi siêu hình nhắc độc
giả Do Thái giáo và Thiên Chúa giáo nhớ đến câu chuyện trong Kinh Thánh kể về Jonah
người đã bị các thủy thủ xem là kẻ mang điềm xấu nên họ phải ném anh ta xuống biển. Theo Kinh Thánh, anh ta bị một con cá thật lớn (“big fish”) nuốt, và sống trong bụng cá một thời
gian, sau nhờ Thượng Đế can thiệp, anh ta được cứu thóat và trở lại đất liền. Tìm cách trốn tránh để khỏi bị trừng phạt chỉ
khiến anh ta gánh chịu thêm nhiều khổ đau hơn.
Nhiều sự kiện lịch sử khác cũng làm quyển tiểu thuyết thêm phong
phú. Chiếc tàu Pequod mang
tên một bộ lạc da đỏ đã tuyệt chủng ở vùng New England; và như thế cái tên Pequod hàm ý rằng chiếc tàu trước sau cũng sẽ bị hủy diệt. Việc săn bắt cá voi là một ngành kỹ nghệ lớn,
nhất là ở vùng New England. Nó cung cấp
dầu, một nguồn năng lượng cần yếu để thắp đèn.
Do đó cá voi thật sự “thắp sáng” cả vũ trụ. Săn cá voi còn hàm ý về chủ nghĩa bành trướng*, và
có liên quan đến ý tưởng cho rằng nước Mỹ tất yếu và cần thiết phải bành trướng
khắp lục địa Mỹ châu, vì ngành này đòi hỏi tàu Mỹ phải đi khắp thế giới để săn
tìm cá voi (thật vậy, tiểu bang Hawaii ngày nay đã được Mỹ chiếm đóng nhằm làm
căn cứ chính để tàu săn cá voi của Mỹ đáp lại lấy thêm nhiên liệu. Các thành viên trong đoàn thủy thủ của tàu Pequod thuộc các sắc dân và tôn giáo khác
nhau, điều này cho chúng ta thấy nước Mỹ có tinh thần đại đồng, và là cái nồi
thập cẩm (gồm đủ các giống dân). Sau hết,
Ahab là hiện thân bi tráng của chủ nghĩa cá nhân dân chủ Mỹ. Chàng đã khẳng định vị trí cá nhân cao quý
của mình và dám đương đầu với các thế lực bên ngoài không thể ngăn chặn được của vũ trụ. Phần kết của tiểu
thuyết đã làm dịu lại tính bi thảm của sự kiện chiếc tàu bị đắm. Xuyên suốt tác phẩm, Melville đã nhấn mạnh tầm
quan trọng của tình bạn và cộng đồng nhân loại đa chủng. Sau khi chiếc tàu bị chìm, Ismael được cứu
sống nhờ chiếc quan tài được người bạn thân chạm trổ, đó là ông
hoàng người Polynesia Queequeg, người chuyên phóng lao nhọn để giết cá voi và có
nhiều vết xâm trên người. Những nét khắc
họa nguyên sơ và đầy tính huyền thoại trên chiếc quan tài nói lên cả
lịch sử của vũ trụ. Ishmael được cứu
thoát chết bởi một vật tượng trưng cho cái chết. Truyện kết thúc với sự sống lại bắt đầu từ cái chết.
Moby Dick từng
được gọi là “bản anh hùng ca về thiên nhiên” –một kịch bản
tuyệt vời về tinh
thần con người trong bối cảnh thiên nhiên nguyên sơ, vì nó nói
lên một huyền
thoại về săn bắn, chủ đề kết nạp thành viên vào nhóm, tính
biểu trưng của hòn đảo Eden, cách đối xử tốt đối với các
giống người mà đời sống của họ còn thuộc vào thời kỳ trước
cách mạng công nghiệp, và về việc đi tìm cách tái sanh lại.
Đặt con người một mình giữa thiên nhiên là
nét đặc thù rất Mỹ. Nhà văn và chính trị
gia người Pháp Alexis de Tocqueville đã tiên đoán trong tác phẩm Dân chủ Ở Mỹ (1835) của ông rằng chủ đề
này tất yếu sẽ xuất hiện ở Mỹ như là kết quả của nền dân chủ Mỹ.
----
*Vào thế kỷ 19 người Mỹ tin vào chủ thuyết Manifest Destiny, cho rằng nước họ tất yếu và cần thiết phải bành trướng lãnh thổ khắp lục địa Mỹ châu.
Manifest Destiny is the 19th century doctrine or belief that the expansion of the US throughout the American continents was both justified and inevitable.
Những biến cố xảy đến trong tương lai cho loài người, con người bị đẩy ra khỏi xứ sở và thời đại của mình, đứng trước thiên nhiên và Thượng Đế, với những đam mê hiếm có, những hoài nghi, những đau khổ khôn lường, sẽ trở thành chủ đề chính, nếu không muốn nói là chủ đề duy nhất, của thi ca Mỹ.
Manifest Destiny is the 19th century doctrine or belief that the expansion of the US throughout the American continents was both justified and inevitable.
Những biến cố xảy đến trong tương lai cho loài người, con người bị đẩy ra khỏi xứ sở và thời đại của mình, đứng trước thiên nhiên và Thượng Đế, với những đam mê hiếm có, những hoài nghi, những đau khổ khôn lường, sẽ trở thành chủ đề chính, nếu không muốn nói là chủ đề duy nhất, của thi ca Mỹ.
Tocqueville lý luận rằng, trong một nền dân chủ, văn chương
phải nói về “những điều sâu kín nằm trong bản chất phi vật chất của con người,”
chứ không chỉ nói về ngoại hình, hay những khác biệt hời hợt bên ngoài như giai
cấp hoặc vị trí xã hội. Chắc chắn Moby Dick và Typee, cũng như Những Cuộc
Mạo Hiểm Của Huckleberry Finn và Walden, đều phù hợp với miêu tả nói trên. Các tác
phẩm này đều ca ngợi thiên nhiên và đánh đổ khuynh hướng phân chia giai cấp và
văn minh thành thị.
Edgar Allan Poe (1809-1849)
Edgar Allan Poe, một người miền Nam, cùng với Melville đều có
cái nhìn siêu hình tối ám xen lẫn các yếu tố hiện thực, đùa bỡn,chế diễu. Ông đã đưa chuyện ngắn lên tầm cao và sáng tạo ra truyện trinh thám. Nhiều
truyện của ông đã mở đường cho tiểu thuyết khoa học giả
tưởng, truyện kinh dị và hoang đường rất phổ biến hiện nay.
Cuộc đời ngắn ngủi và bi thảm của Poe lúc nào cũng đầy bất
an. Giống như các nhà văn lớn thuộc thế kỷ
19 ở Mỹ, Poe mồ côi từ thuở nhỏ.
Năm 1835 ông có một cuộc hôn nhân kỳ lạ với người em họ Virginia Clemm khi cô mới
14 tuổi. Cuộc hôn nhân này được cho là nỗ lực của Poe nhằm tìm kiếm một mái ấm gia đình ổn định mà ông thiếu mất.
Poe tin rằng kỳ lạ là yếu tố cần yếu cho cái đẹp, và những
gì ông viết thường mang phong cách nước ngoài, khác hẳn Mỹ. Truyện của ông thường nói về các nhân vật quý
tộc sống về nội tâm, có số phận hẩm hiu.
Giống như những người miền Nam khác, Poe rất trân quý lý tưởng của giai
cấp quý tộc. Những nhân vật sầu thảm này
hầu như không bao giờ làm việc hay giao tiếp với xã hội, thay vào đó họ chỉ biết
thu mình trong các lâu đài cổ mốc meo, tăm tối, được trải thảm treo màn mang tính biểu tượng kỳ lạ,
che khuất thế giới thật có ánh sáng mặt trời, cửa sổ, có tường và sàn
nhà để lộ rõ. Các căn phòng khuất sâu không người
biết đến là thư viện xưa cổ, là nơi chứa những bức tranh lạ, và các đồ vật linh tinh gốc từ phương đông. Những người
quý tộc trong truyện của Poe biết chơi nhạc và đọc sách xưa, cổ điển, rồi nghiềm ngẫm
về các chuyện buồn đã xảy ra, thường
là
cái chết của những người thân yêu. Chủ đề chết trong lúc còn
sống, nhất là bị chôn sống, hoặc người chết trở về từ huyệt
mộ dưới dạng ma cà rồng thường xuất hiện trong tác phẩm của
Poe như "Chôn Sớm," "Ligeia," "Thùng Rượu Amontillado," và "Sự Sụp
Đổ Của Ngôi Nhà Usher." Cõi mờ tối giữa sự sống và cái
chết cùng bối cảnh Gothic trong truyện của ông khiến người đọc
choáng ngợp không phải chỉ có tác dụng tô điểm thêm vào câu
chuyện. Chúng phản ánh nội tại thời thượng thái quá và đầy
tính chết chóc trong tâm lý bất an của nhân vật. Chúng chỉ là
sự diễn đạt tượng trưng cho cõi vô thức, và là trọng tâm văn
thuật của Poe.
Thơ của Poe, giộng như thơ của nhiều nhà thơ miền Nam, giàu chất nhạc và theo sát luật âm vận. Bài thơ nổi tiếng nhất của ông thời ông còn sống cũng như cho đến bây giờ, là bài "Con Quạ" (1845). Trong bài thơ ma quái này, người kể chuyện bị ám ảnh không thể ngủ được đang ngồi đọc sách và thương tiếc "Lenore đã khuất bóng" vào lúc nửa đêm thì có một con quạ (loài chim sống nhờ ăn thịt xác chết đã thối rửa, và vì thế nó tượng trưng cho sự chết) đến đậu nơi cửa nhà ông và cứ cất tiếng kêu lập đi lập lại điệp khúc nổi tiếng trong bài thơ "không còn nữa." Bài thơ kết thúc với cảnh tượng bất động khi người kể chuyện chết đột ngột như đang còn sống:
Và con Quạ, không bay vụt đi,
nó đậu ở đó, vẫn còn đậu ở đó.
trên bức tượng bán thân xanh xao của Pallas*
ngay trên cửa phòng tôi
và đôi mắt của nó trông như mắt quỷ đang mơ mộng
và ánh đèn dầu phía trên
đổ bóng nó xuống nền nhà
và linh hồn tôi
từ chiếc bóng ấy
nằm trôi nổi trên sàn nhà
sẽ được chấp cánh bay lên --không còn gì nữa!
----
*Pallas là tên một vị thần Titan trong huyền thoại Hy lạp. Nữ thần Athena cũng thường được gọi tên Pallas. Cả hai vị thần đều có liên quan đến các binh thuật dùng trong chiến tranh.
(Pallas was a Titan god in Greek mythology, son of the Titans Crius and Eurybia. He had two brothers, Astraeus and Perses, and he was married to Styx, with whom he had a number of children; Zelus, Nike, Kratos, Bia, Scylla, Fontes and Lacus. He was the Titan of warcraft; Athena or Athene, often given the epithet Pallas, is an ancient Greek goddess associated with wisdom, handicraft, and warfare, who was later syncretized with the Roman goddess Minerva.)
Thơ của Poe, giộng như thơ của nhiều nhà thơ miền Nam, giàu chất nhạc và theo sát luật âm vận. Bài thơ nổi tiếng nhất của ông thời ông còn sống cũng như cho đến bây giờ, là bài "Con Quạ" (1845). Trong bài thơ ma quái này, người kể chuyện bị ám ảnh không thể ngủ được đang ngồi đọc sách và thương tiếc "Lenore đã khuất bóng" vào lúc nửa đêm thì có một con quạ (loài chim sống nhờ ăn thịt xác chết đã thối rửa, và vì thế nó tượng trưng cho sự chết) đến đậu nơi cửa nhà ông và cứ cất tiếng kêu lập đi lập lại điệp khúc nổi tiếng trong bài thơ "không còn nữa." Bài thơ kết thúc với cảnh tượng bất động khi người kể chuyện chết đột ngột như đang còn sống:
Và con Quạ, không bay vụt đi,
nó đậu ở đó, vẫn còn đậu ở đó.
trên bức tượng bán thân xanh xao của Pallas*
ngay trên cửa phòng tôi
và đôi mắt của nó trông như mắt quỷ đang mơ mộng
và ánh đèn dầu phía trên
đổ bóng nó xuống nền nhà
và linh hồn tôi
từ chiếc bóng ấy
nằm trôi nổi trên sàn nhà
sẽ được chấp cánh bay lên --không còn gì nữa!
----
*Pallas là tên một vị thần Titan trong huyền thoại Hy lạp. Nữ thần Athena cũng thường được gọi tên Pallas. Cả hai vị thần đều có liên quan đến các binh thuật dùng trong chiến tranh.
(Pallas was a Titan god in Greek mythology, son of the Titans Crius and Eurybia. He had two brothers, Astraeus and Perses, and he was married to Styx, with whom he had a number of children; Zelus, Nike, Kratos, Bia, Scylla, Fontes and Lacus. He was the Titan of warcraft; Athena or Athene, often given the epithet Pallas, is an ancient Greek goddess associated with wisdom, handicraft, and warfare, who was later syncretized with the Roman goddess Minerva.)
Các truyện ngắn của Poe –như các truyện được ̣đề cập ở trên—thường được mô tả là truyện kinh dị. Những
truyện như “Con Bò Vàng,” “Lá Thư Mất Cắp” chủ yếu là truyện dựa trên lý trí
và suy luận. Truyện kinh dị của Poe mở đường cho các tác giả Mỹ chuyên viết tiểu thuyết kinh dị như H.P. Lovecraft và
Stephen King, trong khi loại truyện suy luận báo trước sự ra đời của loại truyện
trinh thám của Dashiell Hammett, Raymond Chandler, Ross Macdonald. và John D.
Macdonald. Nó cũng báo trước sẽ có loại
tiểu thuyết khoa học giả tưởng. Tất cả
các truyện như thế cho ta thấy Poe rất quan tâm say mê tìm hiểu nội tâm con
người, và tri thức khoa học kinh khủng đã thế tục hóa nhãn quan của con người
về thế giới vào thế kỷ 19.
Trong mỗi thể loại Poe đều đi sâu tìm hiểu tâm hồn con
người. Xuyên suốt các tác phẩm của ông đều
tỏa sáng tri thức sâu sắc về tâm lý học. Trong truyện “Con Mèo Đen” có
câu: “Có đến
cả trăm lần như một, ai lại chưa từng phạm tội hoặc có một hành vi ngu xuẩn nào đó, lý do chỉ vì anh
ta biết rõ mình không nên làm điều đó.” Để tìm hiểu các diễn biến tâm lý lạ lùng không
hề có ở nước Mỹ, Poe tìm hiểu các chuyện kể về người điên và tình cảm cực đoan. Văn phong rất mực cẩn trọng và lời
giải thích chi tiết trong truyện của Poe càng làm tăng thêm nét kinh dị với những biến
cố được mô tả sống động và đầy thuyết phục.
Việc Poe biết kết hợp giữa sự suy đồi tha hóa với tình cảm lãng mạn
nguyên tuyền trong tác phẩm của ông đã thu hút mạnh mẽ người Âu châu, nhất là
các nhà thơ Pháp như Stéphane Mallarmé, Charles
Baudelaire, Paul Valéry và Arthur Rimbaud.
Mặc dù ông ghét kiểu dân chủ của quý tộc, chuộng những gì của nước
ngoài hơn Mỹ, và viết về các chủ đề về sự tha hóa của con người, Poe không phải
không có phong cách Mỹ. Ngược lại, ông
như một quyển sách giáo khoa điển hình chứng minh lời tiên đoán của Toqueville rằng
nền dân chủ Mỹ sẽ sản sinh những tác phẩm phơi trần các vùng sâu kín ẩn khuất
nhất của tâm hồn con người. Nỗi lo sợ ăn sâu và tâm lý bất an dường như xảy ra ở Mỹ trước cả Âu châu, vì Âu châu đã có sẵn một
cấu trúc xã hội vững vàng và phức tạp làm người Âu châu được ổn định về mặt tâm lý. Ở
Mỹ con người không hề được bù đắp về mặt
tâm lý; mọi người phải tự lo cho mình. Poe đã mô tả chính xác
mặt trái của giấc
mơ Mỹ về con người tự lập thân và cho ta thấy cái giá của chủ
nghĩa vật chất và
cạnh tranh thái quá, đó là nỗi cô đơn, sống cách biệt mọi
người chung quanh, và những hình ảnh chết đột ngột (chết trong
lúc còn sống).
Sự “suy đồi tha hóa” trong
truyện của Poe cũng phản ảnh việc hạ giá trị các biểu tượng xảy ra vào thế kỷ
19 --khi người ta hay để lẫn lộn các tác phẩm nghệ thuật thuộc nhiều thời kỳ
khác nhau thu thập từ các nước khác nhau, làm chúng không còn danh tính riêng
nữa mà chỉ còn là các món đồ trưng bày trong bộ sưu tập của họ. Sự hỗn loạn về phong cách đặc biệt thể hiện
rất rõ tại Mỹ, một đất nước thiếu hẳn phong cách truyền thống của riêng
mình. Tình trạng hỗn độn phản ánh sự thiếu mất các hệ thống tư tưởng nhất quán
chặt chẽ khi việc di dân, đô thị hóa và công nghiệp hóa làm các gia đình mất đi
gốc gác và các truyền thống của mình.
Trong hội họa, sự pha trộn các biểu tượng đưa đến tình trạng quái thai,
một chủ đề mà Poe đã nêu rõ trong tập truyện ngắn nổi tiếng của ông tựa đề Những
Chuyện Quái Đản và Cầu Kỳ (1840).
No comments:
Post a Comment
Note: Only a member of this blog may post a comment.