Mỗi bộ lạc có tôn giáo riêng. Họ thờ thần thánh, thú vật, cây
cỏ và vong linh. Nhà nước có thể dưới dạng dân chủ, hội đồng
bô lão, hoặc thần quyền (do người lãnh đạo về tôn giáo nắm
quyền). Tất cả những nét đa dạng này của các bộ lạc đều được
phản ảnh trong văn học truyền miệng của người bản xứ. Dù vậy
ta có thể khái quát hóa vài nét đặc trưng của nền văn học này. Chuyện kể của người
Da Đỏ luôn luôn nhấn mạnh thiên nhiên, xem đó là một bà mẹ thật sự
và cũng là bà mẹ tâm linh. Thiên nhiên có sự sống thực và có
sức mạnh siêu việt.
Nhân vật trong chuyện gồm thú vật, cây cỏ, và các vật biểu tượng cho
một bộ lạc, một nhóm người hay một cá nhân. Trong văn học Mỹ sau này, gần gũi nhất với ý
thức thánh thiện của người Da Đỏ là bài nghị luận siêu nghiệm “Over
Soul” của Ralph Waldo Emerson, một bài viết bàn về mọi mặt của đời
sống.
Các bộ lạc Mễ Tây Cơ tôn thờ thần
Quetzalcoatl, vị thần
của người Toltec và Aztec [hình dạng như loai
rắn, có lông và biết bay, được xem là thần sáng tạo ra loài người]. Ở vùng khác cũng có vài
chuyện về thánh thần và văn hóa cao thâm hơn.
Tuy nhiên, không hề có một bộ truyện tôn
giáo dài, đầy đủ, chuẩn mực nào về một đấng thần linh tối
cao. Những chuyện tương đương với các chuyện kể tâm linh của Cựu
thế giới thường kể về lễ kết nạp thành viên hoặc các
cuộc hành trình của các thầy pháp.
Ngoài ra cũng
có các chuyện về các anh hùng như Manabozho của bộ lạc Ojibwa, hay
Coyote của
bộ ḷạc Navajo. Những
nhân vật giả mạo danh xưng này được nói đến trong chuyện với các mức
độ tôn kính khác nhau. Có chuyện đề cập họ như người anh hùng;
có chuyện lại xem họ như kẻ ích kỷ và ngu ngốc.
Mặc dù những vị có thẩm quyền
trước đây như nhà tâm lý Thụy sĩ Carl Jung đã xem chuyện về kẻ giả
danh lừa người chỉ nhằm mô tả mặt thấp kém, phi đạo đức của tâm
hồn, các học giả ngày nay –vài người trong số đó là người gốc Da
Đỏ-- cho rằng ngay cả những anh hùng Hy lạp được chúng ta kính
trọng như Odysseus và Prometheus, xét cho cùng, cũng là những kẻ đi
lừa người.
Dòng văn học của người Mỹ Da Đỏ gồm đủ thể loại: bài ca, bài tụng,
huyền thoại, chuyện thần tiên, các mẫu chuyện khôi hài, tục ngữ, câu
đố, mật chú, trường ca và huyền sử. Ngoài
ra còn rất nhiều chuyệ̣n kể về những người di dân đầu tiên, về những
kẻ lừa người khác, và các bài hát cầu xin lành bệnh. Một số chuyện
giải thích sự sáng lập
thế giới khá được yêu
chuộng. Một truyện về khai thiên
lập địa khá nổi tiếng với nhiều phiên bản khác nhau của các bộ tộc
kể về một chú rùa cõng trái đất trên lưng. Theo chuyện kể của người bộ lạc
Cheyenne, Đấng Sáng Thế Maheo, có bốn cơ hội để tạo dựng thế
giới từ vũ trụ nước. Ngài truyền
cho bốn con chim biển lặn xuống đáy đem quả đất lên. Con ngỗng tuyết, con vịt trời, và con ngang cất
cánh bay lên trời cao rồi xà xuống lặn dưới nước, nhưng chúng không
đến tận đáy. Nhưng con chim cuốc/sâm cầm không biết bay lại thành công
khi mang lên ít bùn ngậm trong mỏ của nó.
Chỉ một giống vật duy nhấtCụ bà Rùa khiêm tốn, có hình dạng
thích hợp để nâng thế giới làm bằng bùn mà ngài Maheo từ đó mới có tên “Đảo Rùa”
(Turtle Island) mà người Da Đỏ đặt cho nước Mỹ.
Các bài hát hay thơ ca, giống như
truyện kể, nói về các đề tài thiêng liêng cho đến nhẹ nhàng
vui nhộn: hát ru con, hát khi xuất quân ra trận, tình ca, các bài ca đặc biệt dành riêng cho trò
chơi của trẻ em, ncơgười
lớn, hay bài hát cho các điệu múa ….Có những bài hát ngắn với hình
ảnh rõ ràng kèm theo việ̣c mô tả tâm trang tinh tế về một người,
giống như thơ haiku của Nhật hay thơ tự do
imagism nhấn mạnh
tạo hình ảnh rõ ràng chịu ảnh hưởng của Đông Phương tại
Anh và Mỹ đầu thế kỷ 20 (thơ Ezra Pound chẳng hạn) như bài ca sau đây của người bộ
lạc Chippewa:
A loon I thought it was
But it was
My Love’s
Splashing oar
Tôi ngỡ đó là ngỗng trời
Hóa ra là mái
chèo đập nước
của người
yêu.
Những bài hát về cách nhìn đời, thường rất ngắn, là một thể loại đặc thù riêng. Xuất hiện từ trong các giấc mơ hay viễn kiến, đôi khi không báo trước, các bài ca này có thể dùng vào việc trị bệnh, săn bắn, hay bày tỏ tình cảm. Thường chúng mang tính riêng tư, như bài ca sau đây của người Modoc:
Tôi
Là bài ca
đi bộ đến nơi này.
Trong ngành Hoa Kỳ học (American Studies), văn học truyền miệng của người Da Đỏ và mối liên hệ của nó với toàn bộ văn học Mỹ là chủ đề phong phú nhất nhưng cũng ít được nghiên cứu nhất. Cống hiến của người bản xứ cho nước Mỹ lớn hơn nhiều người nghĩ. Trong tiếng Mỹ hàng ngày, có hàng trăm ngôn từ Da Đỏ như “canoe”, “tobacco”, “potato”*, “moccasin”, “moose”, “persimmon”, “racoon”, “tomahawk”, và “totem”. Sáng tác đương đại của người bản xứ, sẽ được bàn đến trong Chương 8, cũng bao gồm các tác phẩm lớn tuyệt vời.
---
*Chữ potato có lẽ đã có ở Ái nhĩ lan trước khi người Âu châu khám
phá ra Tân thế giới.
**Khuynh hướng hình ảnh là một phong trào của thi ca Anh Mỹ đầu thế kỷ 20, chủ xướng việc dùng hình ảnh chính xác và ngôn ngữ rõ ràng sắc bén. Nó được xem là phong trào văn học tiếng Anh hiện đại có tổ chức đầu tiên, và đôi khi được xem là "một chuỗi những sáng tạo nối tiếp nhau" hơn là một thời kỳ phát triển kéo dài liên tục. Wiki
Imagism was a movement in early-20th-century Anglo-American poetry that favored precision of imagery and clear, sharp language. It is considered to be the first organized modernist literary movement in the English language. Imagism is sometimes viewed as "a succession of creative moments" rather than a continuous or sustained period of development. Wiki
https://poets.org/text/brief-guide-imagism
No comments:
Post a Comment
Note: Only a member of this blog may post a comment.