Chàng Tuổi Trẻ Goodman Brown
Truyện Ngắn của Nathaniel Hawthorne
(1804-1864)
***Vào lúc hoàng hôn buông xuống ở làng Salem, chàng thanh niên Goodman Brown rời nhà ra đi; nhưng sau khi qua khỏi ngạch cửa, chàng lại quay đầu vào trong nhà trở lại để hôn từ giã người vợ trẻ của mình. Còn Faith, cái tên (có nghĩa là “Chung Thủy”) rất hợp với cô vợ của chàng, cũng ló mái đầu đội mũ xinh xắn của mình ra đường, để làn gió đùa với những chiếc nơ hồng trên mũ khi nàng cất tiếng gọi Goodman Brown.
“Anh yêu ơi,” nàng thỏ thẻ giọng buồn buồn khi kề môi bên tai chàng, “em xin anh hoãn đến bình minh hãy đi, và ngủ lại nhà đêm nay. Người phụ nữ một thân một mình hay có những giấc mơ và ý nghĩ đôi khi làm nàng sợ cả chính mình. Anh hãy ở lại với em tối nay, người chồng yêu dấu của em, chỉ một đêm nay trong năm nữa thôi.”
“Em Faith yêu dấu của anh,” chàng Goodman Brown đáp lại,”trọn năm chỉ có đêm nay anh phải đi xa em. Chuyến đi này, như em biết, anh đi rồi sẽ trở lại, và anh phải đi trước bình minh. Mình mới cưới nhau có ba tháng, mà sao em đã nghi ngờ anh rồi, cô vợ diu dàng xinh đẹp của anh?”
“Thôi thế thì xin Chúa phù hộ cho anh vậy,” Faith đáp lại, trên mũ có gắn những chiếc nơ hồng, “em cầu xin anh trở về được khỏe mạnh.”
“Amen!” Goodman Brown nói. “Faith ơi, em hãy cầu nguyện và đi ngủ lúc hoàng hôn buông xuống thì em sẽ chẳng bị hại bao giờ.”
Thế là họ chia tay; và chàng trai trẻ đi theo con đường của mình cho đến khi sắp phải quẹo nơi góc đường cạnh tòa nhà dùng làm chỗ hội họp dân làng, chàng quay lại nhìn, và còn thấy mái đầu của Faith vẫn dõi theo bóng chàng với vẻ buồn bã dù nàng đội mũ có gắn những chiếc nơ hồng.
“Ôi Faith bé nhỏ đáng thương!” chàng thầm nghĩ, tim đau nhói. “Mình thật tồi tệ khi bỏ vợ đi thế này! Nàng có nói nàng nằm mộng. Mình thấy dường như lúc nàng nói trên gương mặt nàng lộ vẻ lo âu, như thể điềm mộng báo cho nàng biết chuyện gì sẽ phải làm tối nay. Nhưng không, không, nếu biết nàng sẽ chết được. Nàng qủa là một thiên thần được ban ân sủng trên cõi đời này; và sau đêm nay, mình sẽ bám lấy vạt áo của nàng để cùng theo nàng lên trời.”
Với quyết tâm dũng mãnh hướng về tương lai này, Goodman Brown cảm thấy mình có đủ lý do chính đáng để tiến hành nhanh chóng mục đích xấu chàng hiện có. Chàng đã chọn theo một nẻo đường tăm tối, đầy cây cối rậm rì nhất trong khu rừng, cây mọc san sát đến nỗi hầu như không còn chỗ để đi, và khi chàng đã đi qua rồi thì cây khép kín ngay. Chàng chưa bao giờ một thân một mình như thế này; và có một cái gì đó kỳ đặc ở chốn cô tịch này khiến lữ khách không thể biết được ai núp đằng sau vô số thân cây với những cành lá um tùm phủ kín trên đầu; dày đặc đến độ với từng bước chân đơn độc chàng có thể đang đi qua một đám đông người mà không hề thấy họ.
Goodman Brown nhủ thầm, “Đằng sau mỗi thân cây có thể có một tên da đỏ hung ác đang núp.” Rồi sợ hãi liếc nhìn về phía sau, chàng lại nghĩ tiếp, “Biết đâu tên quỷ hung ác ấy đang kề bên hông mình không chừng!“
Vừa quay đầu lại, chàng đã đi qua một khúc quanh của lối đi. Lúc chàng nhìn về phía trước chàng thấy bóng một người đàn ông ăn mặc nghiêm trang chỉnh tề ngồi nơi gốc cây. Khi Goodman Brown đến gần, ông ta đứng dậy và cùng đi bên cạnh chàng.
“Anh trễ rồi, Goodman Brown à,” người ấy nói. “ Đồng hồ của khu phố Cổ Miền Nam đã điểm lúc tôi đi qua Boston, và như thế là đã mất trọn 15 phút.”
“Faith giữ tôi lại một hồi.” Chàng thanh niên đáp lại giọng run run trước sự xuất hiện đột ngột của người đồng hành này, dù chàng không hẳn là không mong đợi ông ta.
Lúc bấy giờ trong rừng trời đã tối nhiều, và tối nhất là chỗ ha người đang đi. Ánh sáng vừa đủ cho thấy người lữ khách thứ hai khoảng 50 tuổi, thuộc tầng lớp xã hội cũng như Goodman Brown, và khá giống chàng về dáng vẻ hơn là nét mặt. Tuy vậy, họ trông như hai cha con. Người lớn tuổi hơn có cách ăn mặc và dáng điệu cũng đơn giản như Goodman Brown, nhưng ông ta có một phonng cách khó tả của một người hiểu đời, một người sẽ không thấy ngại ngùng nếu được ăn tối với ngài Thống đốc hoặc được mời đến triều đình của vua Williams nếu vì công việc ông ta ó thể phải đến những nơi đó. Nhưng vật duy nhất đáng lưu ý nơi ông ta chính là cây trượng có hình một con rắn đen thật lớn, được đẽo gọt thật kỳ lạ trông nó uốn éo y như rắn thật. Tất nhiên đấy chỉ là hình rắn giả lừa mắt trần do ánh sáng chập chờn gây ra.
“Đến đây, Goodman Brown,” người cùng đi với chàng cất tiếng gọi. “Bắt đầu đi thế này là chậm rồi đấy. Anh hãy cầm lấy cây trượng của tôi nếu anh đã thấy mệt sớm như thế.”
“Ông bạn à,” Goodman Brown đang đi chậm bỗng chàng dừng lại nói. “tôi đã giữ đúng thỏa thuận sẽ gặp ông tại đây rồi, giờ mục đích của tôi là muốn quay về chỗ của mình. Tôi ngần ngại không muốn đề cập đến điều ông muốn nói.”
“Ngươi nói thế à?” người đàn ông nói với con rắn, miệng mỉm cười.”Dù sao chúng ta hãy đi tiếp đã, vừa đi vừa nói cho ra lẽ, và nếu tôi không thuyết phục được anh, anh sẽ quay trở lại. Chúng ta mới đi vào trong rừng có một đoạn ngắn thôi mà.”
“Đi quá xa, quá xa rồi!” Goodman kêu lên, nhưng không ý thức rằng chàng đang bước đi tiếp. “Cha tôi chưa bao giờ đi vào rừng có việc như thế này, cả ông của tôi trước đây cũng không bao giờ đi như vầy. Chúng tôi là những người lương thiện, những con chiên ngoan đạo từ thời các vị thánh tử đạo; liệu tôi sẽ trở thành người mang tên Brown đầu tiên và kết...”
“ý anh muốn nói ‘kết bạn với người như vầy, phải không?”người lớn tuổi nhận xét, tìm cách diễn dịch việc mình dừng lại. “Anh nói phải lắm, Goodman Brown ạ! Lâu nay tôi quen biết rõ gia dình anh như một người trong nhóm những người theo Thanh giáo; đấy không phải chuyện nhỏ đâu. Tôi đã giúp ông của anh, lúc ấy ông là tuần viên (cảnh sát/người giữ trật tự) trong làng, khi ông ấy lấy roi quất người đàn bà theo phái Quaker trên đường làng Salem; và cũng chính tôi đã đem đến cho cha anh bó đuốc làm với thông ba lá thắp từ bếp lửa nhà tôi để đốt cháy một ngôi làng Da Đỏ trong cuộc chiến tranh Vua Philip* dẫn đầu. Cả hai người, ông và cha anh, đều là bạn tốt của tôi. Chúng tôi đã cùng nhau đi lại trên lối mòn này nhiều lần, và sau nửa đêm trở về vui vẻ. Vì họ tôi sẽ vui lòng kết bạn với anh.”
“Nếu những gì ông nói qủa có thật,” Goodman Brown đáp, “tôi lấy làm ngạc nhiên vì cha ông tôi chẳng hề nói cho tôi biết chuyện này; hoặc, thành thực mà nói, tôi sẽ chẳng ngạc nhiên chút nào, vì tôi biết rằng nếu có những lời đồn đãi như thế hẳn ông cha tôi đã bỏ xứ New England này đi lâu rồi. Chúng tôi là những người biết cầu nguyện, hơn nữa, chúng tôi làm việc đàng hoàng, và không chấp nhận những gì tàn ác như vậy.”
“Tàn ác hay không tàn ác,” người lữ khách với chiếc trượng uốn éo hình con rắn nói, “Tôi quen biết rất nhiều người ở vùng New England này. Các vị trợ tế của nhiều nhà thờ từng uống rượu hiệp thông với tôi. Các quan chức trong vùng bầu tôi làm chủ tịch. Những nhà làm luật cai trị miền thuộc địa theo giáo phái Puritan đều ủng hộ lợi ích của tôi. Ngay cả Ngài Thống đốc và tôi –Nhưng thôi đây là chuyện mật của tiểu bang.”
“Sao lại có chuyện như thế?” Goodman Brown trố mắt kinh ngạc nhìn người đồng hành trông thật bình thản của mình. “ Dù sao đi nữa, tôi chẳng liên hệ gì với ngài Thống đốc và hội đồng làng; họ có cách của họ và họ không có gì để phải nói tới một nhà nông quèn như tôi. Nhưng nếu tôi tiếp tục đi với ông thế này, làm sao tôi còn dám nhìn vào mắt ông cụ đức hạnh tốt là vị mục sư của chúng tôi ở làng Salem? Ôi, giọng của cụ ấy sẽ làm tôi run sợ vào ngày Sabbath và ngày học giáo lý.”
---
Notes:
*King Philip’s War (1675-1676) còn gọi là chiến tranh Narragansett vĩ đại: cuộc chiến giữa thổ dân Mỹ ở New England do tù trưởng Metacom, tức "King Philip,"lãnh đạo, chống lại di dân Anh và đồng minh Da Đỏ của họ, được xem là một trong những cuộc xung đột đẫm máu nhất trong lịch sử Mỹ. Những người Narragansett là nhóm thổ dân lớn nhất ngụ tại miền nam New England vào thời đó.
https://www.britannica.com/event/King-Philips-War
Nãy giờ người lữ khách lớn tuổi hơn nghiêm nghị lắng nghe; nhưng đến đây ông ta bỗng bật ra cười một hơi, không kềm chế được, khiến cả người ông ta rung lên đến nỗi cây trượng hình giống con rắn của ông trông có vẻ cũng uốn éo theo ông như đồng cảm thật sự.
“Ha! ha! ha!” ông ta vẫn cười lớn tiếng, rồi ráng kềm mình lại, ông nói, “Này, anh Goodman Brown, hãy đi tiếp, đi tiếp, nhưng chớ có làm tôi chết vì cười nhé.”
“À, thôi để kết thúc vấn đề ngay,” Goodman Brown nói tỏ vẻ rất bực bội, “còn Faith, vợ tôi nữa. Chuyện này sẽ khiến tâm hồn nhỏ bé dịu dàng của nàng rất đau buồn; tôi thà tan nát lòng mình còn hơn để Faith chịu như thế.”
“ Không, nếu qủa thế,“ người kia trả lời, “anh Goodman Brown à, tôi chẳng muốn vì 20 người đàn bà như cái bà đang đi khệnh khạng trước mặt chúng ta kia mà Faith phải bị hại.”
Vừa nói ông ta vừa chỉa cây trượng vào một bóng người đàn bà đi phía trước, Goodman Brown nhận ra đó là một phụ nữ rất ngoan đạo và gương mẫu, người đã từng dạy anh giáo lý vấn đáp khi anh còn nhỏ, và là cố vấn đạo đức tâm linh cho anh, cùng nhà truyền giáo và ngài phó tế Gookin.
“Thật kỳ lạ bà Goody Cloyse lại đi vào chốn rừng hoang vu vào lúc trời tối như vầy,” chàng nói. “Nhưng nếu ông bạn cho phép, tôi sẽ đi băng ngang cánh rừng cho đến khi chúng ta bỏ lại người đàn bà Thiên Chúa giáo này phía sau. Vì bà ấy không biết ông, bà có thể hỏi tôi đang đi với ai và đi đâu.”
“Anh đã nói thế thì anh cứ đi vào rừng, để tôi đi theo con lộ này vậy.”
Nói là làm, chàng trai trẻ quay đi, nhưng cẩn thận quan sát người đồng hành với mình lúc đó đang đi trên đường thật nhẹ nhàng cho đến khi ông chỉ còn cách người đàn bà một cây trượng. Trong khi ấy bà ta rảo bước thoăn thoắt nhanh hơn so với tuổi của bà, vừa đi bà vừa lẩm nhẩm cái gì đó không rõ, hẳn là bà đang cầu nguyện. Người lữ khách giơ cây trượng ra đụng vào sau cổ nhăn nheo của bà với đầu trượng giống như đuôi rắn.
“Đồ quỷ dữ!” bà lão ngoan đạo la to lên.
“Thế ra Goody Cloyse biết đây là bạn xưa của bà à?” người lữ khách lên tiếng khi đứng đối mặt với bà và tựa vào cây gậy uốn éo của mình.
“À, thật thế à, ngài khả kính đấy sao?” bà già hiền từ cất tiếng nói lớn. “Vâng, quả thật thế, và ngài trông y như hình dạng của Goodman Brown, người mà tôi đã có lời đồn đãi hồi xưa, tức là ông nội của anh chàng ngốc nghếch có cùng tên hiện giờ. Nhưng – ngài khả kính có tin không? –cây chổi của tôi đã biến mất một cách lạ lùng, tôi nghi nó bị mụ phù thủy không bị xử treo cổ tên là Goody Cory lấy cắp, và cũng thế, khi tôi làm lễ xức dầu bằng nước rau cần hoang (smallage), pha chế với hoa ngũ đài vàng (cinquefoil), và hoa bờm sói màu tím (aconite/wolf’s bane),”
“trộn với bột lúa mì và mỡ của trẻ sơ sinh,” bóng người có dạng giống lão Goodman Brown nói thêm.
“À, thế ngài cũng biết công thức pha chế dầu xức,” bà già nói lớn, tiếng nghe lanh lãnh. “Như tôi nói, tôi đã sẵn sàng đến dự buổi họp, và không có ngựa nên tôi quyết định đi bộ vì họ cho tôi biết rằng tối nay sẽ có một chàng trai trẻ đễ mến đến dự lễ hiệp thông. Nhưng bây giờ nếu ngài khả kính cho tôi vịn cánh tay ngài, thì chỉ trong chớp mắt chúng ta sẽ đi đến đó ngay.”
"Không thể được," người kia đáp. "Goody Cloyse, tôi không thể để bà vịn cánh tay của tôi được, nhưng bà có thể dùng cây trượng này nếu bà muốn."
Nói xong người ấy ném cây trượng xuống cạnh chân bà già, tại đấy có lẽ cây trượng được hóa thành rắn thật, vì trước kia nó vốn là một trong những khúc cây được chủ nó cho những đạo sĩ Ai cập mượn. Tuy nhiên, Goodman Brown không hề biết về sự kiện này. Chàng trố mắt ngước nhìn kinh ngạc, rồi khi nhìn xuống lại, chàng không còn thấy Goody Cloyse và cây trượng đâu nữa, chỉ còn thấy người đàn ông đi với chàng đang đứng một mình, bình tĩnh chờ chàng như thể không có chuyện gì xảy ra.
"Bà già ấy dạy tôi giáo lý đó," chàng trai trẻ nói; một lời bình phẩm thật đầy ý nghĩa.
Họ lại đi tiếp; vừa đi người lữ khách lớn tuổi vừa thúc giục người đồng hành với mình đi nhanh hơn và kiên trì theo lối mòn ấy, ông ta ăn nói khôn khéo đến độ lý luận của ông như phát xuất từ trong thâm tâm người nghe, chứ không phải do ông tự nghĩ ra. Trên đường, ông ta bẻ một cành cây phong để làmgậy, và ông bắt đầu tước các nhánh nhỏ hãy còn ướt sương đêm. Ngay khi ngón tay ông chạm vào, kỳ lạ thay các nhánh cây ấy liền héo khô ngay như thể chúng bị phơi ngoài nắng cả tuần. Thế là cả hai người ung dung đi tiếp cho đến khi tại một chỗ trũng tối tăm trên đường, Goodman Brown đột ngột dừng lại ngồi trên một gốc cây đã bị đốn và từ chối không chịu đi tiếp nữa.
“Này ông,“ chàng bướng bỉnh nói, “tôi đã quyết rồi. Tôi sẽ không nhích thêm một bước nào nữa để tiếp tục lo chuyện này. Sao cái bà già chết tiệt ấy lại chọn đi theo quỷ dữ trong khi tôi cứ nghĩ bà ta sẽ đi lên thiên đàng: có phải vì lý do ấy mà tôi phải bỏ nàng Faith yêu dấu của tôi để theo bà ta không?”
“Rồi anh sẽ suy nghĩ chính chắn hơn,” người kia bình thản nói. “Hãy ngồi nghỉ một chốc đã; và khi nào anh muốn đi tiếp, cây gậy của tôi sẽ giúp anh.”
Chẳng nói gì thêm, ông ta ném cành cây phong cho người cùng đi với mình, và khuất dạng thật nhanh như thể ông đã biến mất vào chỗ tối tăm sâu thẳm ấy. Chàng thanh niên ngồi bên con lộ trong chốc lát, vỗ tay lớn tự khen mình, thầm nghĩ sáng mai khi đi gặp vị giáo sĩ lòng chàng sẽ nhẹ nhàng thanh thản biết bao, và chàng sẽ không phải tránh né ánh mắt của ngài phó tế Gookin hiền hậu. Rồi chàng sẽ được ngủ một giấc thật an lành tối nay, mà nếu không quyết định như thế chàng sẽ phải trải qua một đêm tối dữ tợn. Nhưng giờ thì khác, tối nay sẽ thật trong sáng ngọt ngào làm sao trong vòng tay của Faith! Đang miên man với những ý nghĩ thú vị và tốt lành như vậy chàng bỗng nghe thấy tiếng vó ngựa trên đường, chàng nghĩ mình nên ẩn mình nơi mép rừng vì chàng biết rõ mục đích tội lỗi đã khiến chàng đi đến đây, dù bây giờ chàng rất vui mừng đã quay lưng, không dấn thân đi tiếp nữa.
Tiếng vó ngựa va tiếng người cỡi ngựa nghe rõ dần, nghiêm nghị tỉnh táo, nghe biết đó là những người có tuổi. Các âm thanh ấy hoà vào nhau vang vang trên con lộ, cách chỗ chàng trai trẻ đang núp độ một vài thước*, nhưng vì chỗ ẫy trũng sâu và tối tăm, chàng không thể thấy cả người lẫn ngựa. Mặc dù bóng họ có quẹt vào các nhánh cây bên lề đường, chàng vẫn không thể thấy họ cả khi họ thóang đi qua vùng có chút ánh sáng mờ mờ từ trên trời rọi xuống. Goodman Brown khi cuối xuống khi nhón gót, vẹt càng cây qua một bên, lấy can đảm thò đầu ra nhìn, nhưng vẫn không thể thấy họ được. Chàng cảm thấy bực bội vì, nếu qủa thật có chuyện này xảy ra, thì chàng dám thề rằng chàng đã nghe thấy tiếng vị giáo sĩ và viên phó tế Gookin, cùng im lặng đi cạnh nhau như họ thường làm mỗi khi họ phải đi làm lễ thánh hay thi hành một mục vụ nào đó. Khi họ đến gần đủ để chàng nghe thấy, một trong hai người cưỡi ngựa dừng lại đổi dây cương.
Người có giọng giống như viên phó tế noí:
“Thưa ngài, tôi thà không dự tiệc thánh chứ không thể bỏ cuộc họp tối nay được. Họ nói với tôi rằng một số người trong họ đạo của chúng ta đến từ Falmouth hay xa hơn thế nữa, lại có người từ Connecticut và Rhode Island đến dự, ngài ra còn có người của các bộ tộc Da Đỏ biết rành các phù phép, hơn cả người giỏi nhất trong số chúng ta nữa. Hơn thế nữa, lại có một cô gái trẻ xinh đẹp cũng sẽ đến làm lễ gia nhập giáo đoàn nữa.”
“Tốt lắm, ngài phó tế Gookin ạ.” Giọng nói nghiêm nghị của vị giáo sĩ vang lên,”Hãy thúc ngựa mà đi không thôi chúng ta sẽ trễ. Ngài biết là chúng ta chẳng làm gì được cho đến khi chúng ta có mặt ở đấy.”
Tiếng vó ngựa lại vang lên; và giọng nói lại văng vẳng trong không gian một cách kỳ lạ giữa chốn rừng rậm, nơi trước đây không hề có người của nhà thờ tụ tập hay một con chiên nào đến để cầu nguyện cả. Vậy thì những vị tu hành này đi đâu mà phải vào sâu nơi hoang dã của ngoại đạo thế này? Chàng Goodman Brown trẻ tuổi vịn lấy một nhành cây, chàng bỗng thấy mình sắp quỵ ngã xuống đất, cháng váng như muốn xỉu vì tâm tư đau đớn trĩu nặng. Chàng ngước nhìn bầu trời, không còn tin có bầu trời trên đầu mình nữa. Vậy mà vẫn còn khung trời xanh thẫm với những vì sao sáng trên trời cao.
---
*1 yard=0.91 meters
Goodman Brown la to lên: “Trên có Trời, dưới có Faith, tôi thề sẽ đứng vững không bị quỷ dữ lung lạc!”
Trong khi chàng vẫn còn ngước nhìn vòm trời tối đen thăm thẳm, hai tay chắp lại cầu nguyện, dù lúc ấy không hề có một ngọn gió, lại có một đám mây bay ngang qua và che khuất các vì sao sáng. Chàng vẫn còn thấy chút bầu trời xanh, nhưng ngay trên đầu chàng lại không thấy được, vì bị đám mây đen bay vụt về phương bắc che khuất. Trên không trung, chừng như từ trong đám mây ấy vẳng ra những tiếng nói lộn xộn, không rõ ràng. Có lúc chàng tưởng mình có thể phân biệt được đấy là giọng nói của những người dân trong làng chàng ở, giọng đàn ông, giọng đàn bà, giọng người ngoan đạo cùng giọng kẻ không biết đạo lý là gì, nhiều người chàng đã từng gặp tại bàn hiệp thông và những người khác chàng từng thấy họ gây náo loạn nơi quán rượu. Liền sau đó, các âm thanh ấy lại trở nên không rõ ràng nữa, khiến chàng ngờ rằng mình chẳng hề nghe thấy tiếng gì cả ngoại trừ tiếng rì rào của rừng già, thì thầm dù trời lặng gió. Rồi một loạt tiếng nói lớn mạnh rất quen thuộc, tiếng mà hàng ngày chàng từng nghe thấy giữa thanh thiên bạch nhật trong làng Salem của chàng, chứ chưa hề nghe từ trong đám mây đêm như bây giờ. Có tiếng một phụ nữ trẻ than thở, tuy trong lời than đó có đượm chút gì đó buồn buồn, nàng van xin người ta giúp nàng việc gì đó mà có lẽ nếu đạt được rồi nàng sẽ đau khổ. Đám đông người mà chàng không hề thấy mặt, trong đó có cả người thánh thiện lẫn kẻ tội lỗi, dường như đều khuyến khích nàng đi tiếp.
“Faith!” Goodman Brown kêu to, giọng chàng thật thống thiết, tuyệt vọng; và tiếng dội của rừng thẳm cũng gào lên như chế nhạo chàng, “Faith! Faith!”như thể những tên vô lại cũng đang cuống cuồng tìm nàng khắp chốn rừng hoang.
Tiếng kêu thống thiết, giận dữ và kinh hoàng của người chồng đau khổ như xé tan đêm đen, chờ đợi tiếng vợ mình đáp lại. Có tiếng la to nhưng liền bị tiếng người xì xào còn to hơn nữa át đi, khiến nó tan loãng mất trong tiếng cười từ xa vọng đến, ngay khi đám mây đen bay vụt qua, chỉ còn lại bầu trời trong và yên lặng phía trên đầu Goodman Brown. Nhưng rồi một vật gì đó bay phớt nhẹ qua trên không trung và vướng lại nơi một nhánh cây. Chàng thanh niên chụp lấy nó, và thấy trong tay mình một chiếc nơ màu hồng.
“Faith của tôi đã đi mất rồi!” chàng gào lên sau một phút mất bình tĩnh. “Không còn gì tốt lành trên đời này nữa; và tội lỗi chỉ là danh xưng. Hỡi ma quỷ, ngươi cứ đến đi; thế giới này đã thuộc về ngươi rồi đó.”
Hóa điên lên vì quá thất vọng, chàng cười rú lên, cầm lấy cây trượng và lại đi tiếp, nhanh đến độ như bay chứ không còn đi bộ hay chạy nữa. Con đường trở nên hoang vu và thâm u hơn, và lối đi nhòa hẳn, không rõ ràng nữa, rồi cuối cùng cũng mất dấu, chỉ có chàng giữa miền hoang vu tối đen, lao về phía trước theo bản năng xua đẩy con người về phía ma quỷ. Toàn bộ khu rừng chỉ có những âm thanh rùng rợn, tiếng cây cối rít, tiếng hú của thú hoang, tiếng reo hò của người Da Đỏ, tiếng gió lúc thì rền vang như tiếng chuông nhà thờ từ xa vọng lại, lúc lại gầm gừ quanh chàng, như thể thiên nhiên đang cười nhạo khinh bỉ chàng. Nhưng chính chàng mới là cái kinh hoàng chính trong cảnh tượng ấy, và chàng không cần tránh những điều kinh hoàng khác ở đó nữa.
"Ha! ha! ha!" Goodman gầm lên khi gió cười nhạo chàng. "Để nghe xem ai cười lớn nhất. Đừng hòng làm ta sợ phù phép của ngươi. Hỡi các phù thủy, thầy bùa, người Da Đỏ nhảy múa lên đồng, hỡi quỷ dữ hãy đến đây. Goodman Brown đã đến rồi. Có thể các ngươi sợ hắn cũng như hắn sợ các ngươi vậy."
Quả thực, khắp cả khu rừng đầy ma quỷ không có gì trông kinh hoàng hơn hình thù của Goodman Brown. Chàng cứ tiếp tục bay qua những cây thông tối đen, tay quơ gậy một cách điên cuồng, lúc thì nguyền rủa Thượng Đế thậm tệ, lúc lại cười hô hố khiến cả khu rừng dội lại tiếng cười như thể lũ quỹ dữ đang ở quanh chàng.
Con quỷ trong hình thù của nó còn ít ghê sợ hơn khi nó nổi cơn thịnh nộ qua lốt người. Cứ thế kẻ điên loạn lao tới trước theo con đường của mình, cho đến khi anh ta thấy chập chờn giữa đám cây cối một ánh sáng đỏ rực trước mặt, giống như cành lá và thân cây bị đốt cháy sau khi người ta phát quang rừng, khiến lửa cháy đỏ rực cả vùng trời ngay nửa đêm. Chàng dừng lại, như thể cơn bão tố cuốn chàng đến đấy bỗng lắng dịu, và chợt nghe tiếng thánh ca từ xa vọng đến ngày một rõ hơn, với nhiều người cùng hát một cách trang trọng. Chàng biết âm điệu bài hát ấy; đó là bài hát quen thuộc của ca đoàn thường hát cho nơi hội họp dân làng. Lời bài hát chìm mất, nhưng lại được kéo dài với một điệp khúc không phải bằng tiếng người hát mà bằng tất cả các âm thanh của chốn hoang dã tối đen cất lên điệu rền rĩ, chói tai. Goodman Brown la to, nhưng tai chàng cũng không nghe thấy tiếng mình la vì nó đã hòa cùng với tiếng kêu của rừng hoang.
Trong một tích tắc im lặng, chàng len lén tiến tới cho đến khi ánh sáng chóa loà trước mắt chàng. Ở một đầu của vùng đất trống chung quanh bao bọc bởi cả một rừng cây sừng sững tối đen có một tảng đá nhô lên, trông có vẻ như bàn thờ hay một bục giảng thô thiển của thiên nhiên, với bốn trụ thông đang cháy trên ngọn bao quanh, tuy thân thông vẫn còn nguyên vẹn, giống như những ngọn đèn cầy thắp cho buổi họp ban đêm. Những tàng cây lớn che phủ phía trên tảng đá đều đang cháy, ngọn lửa bốc cao ngất bầu trời về đêm, và từng chập soi rọi cả cánh đồng. Mỗi nhánh cây và lá dùng để trang trí cũng đang bốc cháy. Mỗi khi tàn lửa đỏ bay lên rồi rơi xuống, một cộng đoàn rất đông người lại được chiếu sáng và hiện ra rồi biến mất trong bóng tối, rồi lại hiện ra trong khoảng tối đen, khiến cho giữa vùng rừng hiu quạnh lại xuất hiện đám đông người.
Goodman Brown nói: “Một nhóm người nghiêm trang mặc tòa màu đen.”
Và họ quả như vặy thực. Trong số họ, chập chờn trong tranh tối tranh sáng, có những gương mặt mà ngày hôm sau chàng sẽ gặp tại hội đồng quản hạt, và những gương mặt khác chàng thường gặp vào những ngày Sa bát ̣(Sabbath), những gương mặt ngước lên trời thật thành kính, nhân hậu quỳ trên những hàng ghế cầu nguyện hay trên bục giảng thánh thiện trong làng. Có người khẳng định vợ ngài Thống đốc cũng có mặt ở đó. Thế nào cũng phải có cả các mệnh phụ phu nhân mà bà quen biết, cùng vợ của những ông chồng danh giá, rồi những quả phụ, rất đông người, có cả các nữ tỳ theo kiểu xưa, ai ai cũng đáng kính, rồi còn có những cô gái tr̉ẻ xinh xinh, nơm nớp lo sợ mẹ canh chừng theo dõi.
Goodman Brown cảm thấy choáng ngợp, có thể vì những luồng ánh sáng bất ngờ rọi qua cánh đồng tối tăm, mà cũng có thể vì chàng nhận ra một loạt những thành viên trong nhà thờ làng Salem, những người nổi tiếng sống đời rất đạo hạnh thánh thiện. Ngài Phó tế cao niên hiền hậu đã đến, và đang chờ bên cạnh vị thánh tôn quý, tức nhà truyền đạo khả kính của mình. Nhưng, thật bất kính thay, xen lẫn với những vị trang nghiêm, danh giá và ngoan đạo này, những bậc trưởng thượng của nhà thờ, những mệnh phụ trung chuyên và các trinh nữ tinh khôi thanh khiết ấy lại là những tên đàn ông hoang đàng, và các mụ đàn bà nhớp nhúa, những kẻ điếm đàng sẵn sàng làm bất kể điều gì đê tiện hèn mạt, thậm chí có những kẻ còn bị tình nghi đã phạm trọng tội. Thật kỳ lạ khi chứng kiến người tốt không hề biết xa lánh kẻ tàn ác, và kẻ phạm tội cũng không cảm thấy xấu hổ trước bậc thánh thiện. Đứng xen lẫn trong đám kẻ thù da trắng của mình là những pháp sư người Da Đỏ, hay còn gọi là powwow, những người từng làm rừng cây phải khiếp sợ với lời mật chú ghê gớm của họ, hay hơn cả phép phù phù thủy người Anh dùng.
"Nhưng Faith đâu rồi?" Goodman thầm nghĩ, và với hy vọ̣ng, chàng thấy lòng mình hồi hộp.
Thánh ca khác với lúc trước lại trỗi lên, giờ với tiết điệu chậm và buồn, nghe như tiếng tâm tình ai oán, hòa cùng lời ca diễn tả tất cả những gì con người có thể biết về tội lỗi, và còn hàm chứa những nhiều điều hơn cả tội lỗi nữa. Con người không thể lường được trong đó có cả những câu chuyện của quỷ dữ. Lời hát cứ ngân vang; và điệp khúc của rừng hoang lại trỗi lên xen giữa lời ca nghe như âm thanh trầm lắng nhất của đàn organ; cùng với chuỗi dài đồng ca thê thảm đó là một thứ âm thanh nghe như tiếng gió rú, tiếng nước chảy xiết, tiếng thú hoang gầm vang, và đủ thứ âm thanh khác của rừng hoang hỗn lọan cùng hòa lẫn nhau, và hòa theo tiếng của kẻ tội lỗi để bày tỏ lòng tôn kính đối với ông hoàng của muôn loài. Bốn cây thông đang cháy bốc lửa lên thật cao, làm lộ ra những hình thù và mặt người thật kinh dị trên các vòng hoa bằng khói tỏa trên đám người vô đạo đang tụ họp. Ngay khi ấy lửa trên tảng đá bắn lên đỏ rực, tạo thành một vòng cung sáng chói phía trên bệ đá, và trên bệ bỗng xuất hiện một cái bóng. Với lòng thành kính phải nói rằng cái bóng ấy không có nét gì tương tự, về cả cách ăn mặc lẫn bộ điệu, với các đấng tu hành trang nghiêm ở nhà thờ vùng New England.
“Hãy đem đến đây những người mới cải đạo!”một tiếng nói to vang dội cả cánh đồng, rồi mất hút về phía cánh rừng.
Khi nghe thấy tiếng ấy Goodman Brown từ trong bóng cây tối đen bước tới gần cộng đoàn, một cộng đoàn mà chàng cảm thấy đồng cảm với một thứ tình anh em đáng ghê tởm từ tất cả những gì độc ác có trong thâm tâm. Chàng gần như có thể thề rằng chàng thấy bóng người cha quá cố đang nhìn xuống từ một vòng hoa bằng khói, vẫy tay kêu chàng tiến tới, trong khi một người phụ nữ với vẻ thất vọng lại xua tay ra dấu cho chàng hãy lùi lại. Có phải đó là mẹ chàng không? Nhưng chàng không có sức lùi bước, và cũng không có sức cưỡng lại việc bước tới nữa, ngay cả trong tư tuỏng cũng không, khi nhà truyền giáo và ngài phó tế già hiền hậu Gookin đã nắm chặt cánh tay chàng và dẫn chàng đến tảng đá đang cháy rực. Cùng đi đến đó có một bóng một phụ nữ thon thả đeo mạng che mặt, được dẫn đi giữa Goody Cloyse, bà giáo sùng đạo dạy lớp giáo lý vấn đáp, và Martha Carrier, người đã nhận lời hứa của ma quỷ để trở thành nữ hoàng cõi địa ngục --một mụ phù thủy bất trị. Và thế là những người cải đạo đứng đấy, dưới láng trại làm bằng lửa đỏ.
Bóng đen lên tiếng: “Chào mừng các con ta đã đến đây dự buổi hiệp thông với đồng loại của mình. Các con đã thấy bản thể và số phần của mình vẫn tươi trẻ. Này các con, hãy quay nhìn lại phía sau!”
Ho quay lại; và bỗng dưng trong màn lửa loé lên bóng những kẻ thờ phượng ma quỷ, với nụ cười đón chào đầy thâm ý đen tối hiện ra trên từng gương mặt.
Cái bóng như con hồ tinh nói tiếp: “Có mặt đủ cả những người mà hồi còn nhỏ các con đã kính trọng. Các con cho họ thánh thiện hơn mình, và xa lánh tội lỗi các con gây ra khi đem đọ tội lỗi ấy với đời sống đứng đắn luôn nguyện cầu mong mỏi được lên thiên đàng của họ. Nhưng tất cả bọn họ đều có mặt trong buổi lễ đàn này. Tối nay các con sẽ được ta cho phép được biết về những hành tung bí mật của họ: những vị trưởng thượng râu bạc nơi nhà thờ đã thì thầm lời khiếm nhã với các cô hầu dọn phòng cho họ; có những phụ nữ chỉ mong được mặc áo tang, nên trước khi đi ngủ, họ cho chồng uống một liều thuốc và để chồng nằm ngủ với mình đêm cuối cùng; có những người trẻ chưa mọc râu mà đã thúc đòi thừa hưởng gia tài của cha chúng; có những cô gái đẹp, má đỏ môi hồng, lại đào những huyệt nhỏ trong vườn nhà, và mời ta, người khách duy nhất đến dự tang lễ của đứa trẻ thơ. Bằng trái tim con người thương cảm cho tội lỗi, các con sẽ đánh hơi thấy mùi tội ác ở mọi chốn –nơi nhà thờ, trên giường ngủ, ngoài phố, trên cánh đồng hay trong rừng rậm, và các con sẽ vui mừng thấy toàn thể trái đất đều nhuộm một màu tội phạm, một vũng máu thật to. Còn hơn thế nữa. Các con sẽ chiếm được vòi nước tuôn trào mọi nghệ thuật ác độc nhất khi các con đi sâu vào chốn thâm cung tội lỗi trong lòng mỗi người, cái vòi không ngừng cung cấp những thôi thúc xấu xa, hơn cả sức mạnh của loài người, và hơn cả sức mạnh của chính ta ở đỉnh cao của nó, khi sức mạnh đó hiển thành hành động. Và bây giờ, hỡi các con của ta, hãy nhìn vào mặt nhau.”
Họ nhìn nhau, và trong ánh lửa của những ngọn đuốc thắp lên từ hỏa ngục, anh chàng khốn nạn nhìn thấy nàng Faith của anh đang run sợ trước cái bàn thờ tội ác ấy, và người vợ cũng trông thấy chồng mình.
“Này các con, các con đang đứng đấy,’ cái bóng ấy lên tiếng, giọng trầm và nghiêm nghị, buồn bã với vẻ thất vọng đáng sợ, như thể bản chất thánh thiện trước đây hắn từng có vẫn còn có thể than vãn cho loài người khốn khổ chúng ta. “Dựa vào tấm lòng đối với nhau, các con đã từng hy vọng đức hạnh không phải chỉ có trong mơ. Giờ đây các con không còn bị lừa phỉnh nữa. Bản chất loài người vốn xấu xa, tội lỗi. Xấu xa tội lỗi phải là hạnh phúc duy nhất của các con. Lần nữa ta chào mừng các con đã đến dự lễ hiệp thông với giống người của mình.”
“Xin chào mừng,” những kẻ thờ phượng ma quỷ đồng thanh lập lại, tiếng lộ vẻ vừa thất vọng vừa đắc thắng.
Và thế là họ, có lẽ là cặp vợ chồng duy nhất, đứng đó, vẫn còn ngần ngừ chưa bước tới chỗ tội ác của thế giới tối ám. Một cái chậu trống không nằm lõm vào trong tảng đá. Nó chứa nước bị ánh sáng chói rực làm có màu đỏ chăng, hay đấy là máu? Cái bóng quỷ ấy nhúng tay vào cái chậu, chuẩn bị làm phép bí tích lên trán của cặp vợ chồng, để họ được dự phần vào bí ẩn tội lỗi, để họ ý thức rõ hơn nữa tội lỗi được dấu kín của những người khác, cả trong tư tưởng lẫn hành động, hơn cả ý thức về tội của chính họ. Anh chồng liếc nhìn cô vợ xanh xao của mình, và Faith cũng liếc nhìn anh. Nhìn thêm lần nữa, họ chỉ thấy hai kẻ khốn nạn, và họ rung sợ trước cái họ và người phối ngẫu của họ để lộ ra cũng như về điều họ thấy!
Anh chồng la to lên: “Faith! Faith! Hãy nhìn lên trời, và hãy chống cự lại kẻ hiểm ác.”
Chàng không biết Faith có nghe lời chàng hay không. Nói xong chàng thấy mình đang ở giữa đêm đen tĩnh mịch, đang lắng nghe tiếng gió gầm gừ, nặng nề tan biến vào khu rừng. Chàng loạng choạng tựa vào tảng đá, và cảm thấy nó vừa lạnh vừa ẩm; khi ấy một cành cây nãy giờ vẫn cháy rắc lên má chàng những hạt sương lạnh giá.
Sáng hôm sau chàng thanh niên Goodman Brown chậm chạp đi trên con đường làng Salem, trừng mắt nhìn chung quanh chàng như kẻ thất thần.Vị giáo sĩ già hiền từ đang thả bộ dọc theo nghĩa địa để ăn sáng thấy ngon miệng hơn, vừa đi ông vừa nghiền ngẫm bài giảng của mình; khi đi ngang, ông làm dấu ban phước lành cho Goodman Brown. Chàng vội vàng tránh vị khả kính thánh thiện ấy như tránh kẻ mình không ưa. Vị phó tế Gookin đang hành lễ trong một nhà dân, và người ta có thể nghe những lời cầu nguyện hiền lành của ông vang ra từ cửa sổ. Goodman Brown nói: “Tên phù thủy đó cầu nguyện Thượng đế nào thế?” Goody Cloyse, tín hữu Ky Tô già xuất chúng, đang đứng dưới nắng sớm nơi khung mắc cáo, giảng giáo lý cho cô bé đem bình sữa sáng đến cho bà. Goodman Brown liền kéo đứa bé đi như thể kéo nó ra khỏi bàn tay ma quỷ. Khi chàng rẽ vào góc đường cạnh bên nhà tụ họp dân làng, chàng nhìn thấy mái đầu của Faith, với những dây nơ hồng, đang lo lắng nhìn về phía trước, và khi thấy bóng chàng, nàng vui mừng quá, liền chạy nhanh ra ngoài đường và suýt nữa nàng đã hôn chàng trước mặt làng xóm. Nhưng Goodman Brown nhìn vào mặt nàng một cách thật ghiêm khắc và buồn bã, rồi đi tiếp mà không chào hỏi nàng gì cả.
Phải chăng Goodman Brown đã ngủ quên trong rừng và chỉ nằm mơ một giấc mơ ngông cuồng về buổi họp mặt của các phù thủy?
Nếu bạn đọc muốn, xin cứ nghĩ như vậy; nhưng trời ơi, đối với Goodman Brown đó lại là một giấc mơ về điềm xấu xa tàn ác. Kể từ đêm nằm mộng thấy điều kinh hoàng đó, chàng bỗng trở thành một người nghiêm khắc, buồn bã, trầm tư một cách bí hiểm, một người không tin ai, nếu không muốn nói là tuyệt vọng. Vào ngày Sa bát, khi cộng đoàn đang hát bài thánh ca, chàng không thể lắng nghe được bài hát ấy vì một bài đầy tội lỗi khác đã ùa vào tai chàng làm át cả âm điệu thánh ca. Khi vị giáo sĩ từ trên bục cất tiếng giảng đạo hùng hồn, đầy nhiệt huyết, tay đặt trên quyển Thánh kinh đang mở ra, rao giảng về những sự thật thiêng liêng của tôn giáo chúng ta, về cuộc đời của các vị thánh sống và cái chết của các vị tử đạo, về tương lai tràn đầy ân phúc hay khốn khổ cùng cực, thì Goodman Brown mặt mày tái xanh, nơm nớp lo sợ mái nhà sẽ đổ sập xuống đầu kẻ phỉ báng Chúa già nua kia cùng đám người đang ngồi nghe. Nửa đêm Goodman Brown thường bất ngờ thức dậy, tránh né người vợ của mình; và vào buổi sáng hay chiều tối, khi cả nhà quỳ gối cầu nguyện, chàng lại cau mày, lầm bầm trong miệng, nhìn vợ một cách nghiêm khắc, rồi quay đi. Đến cuối đời, khi chỉ là một xác chết già nua được người ta đem đi mai táng, theo sau là Faith, một người đàn bà luống tuổi, cùng lũ con cháu –một đám tang khá trang nghiêm, có vài người hàng xóm tháp tùng – người ta không hề khắc lên bia mộ của Goodmn Brown một lời hy vọng nào vì ông qua đời vào giờ quỷ ám.
1835
Nguồn:
Trích trong Great American Short Stories. Do Wallace and Mary Stegner chu bien. (New York, NY: DELL Publishing Co. INC., 1957), trang 53-68.