Monday, April 29, 2019

Chàng Tuổi Trẻ Goodman Brown



Chàng Tuổi Trẻ Goodman Brown
Truyện Ngắn của Nathaniel Hawthorne
(1804-1864)
                                                                          ***
Vào lúc hoàng hôn buông xuống ở làng Salem, chàng thanh niên Goodman Brown rời nhà ra đi; nhưng sau khi qua khỏi ngạch cửa, chàng lại quay đầu vào trong nhà trở lại để hôn từ giã người vợ trẻ của mình.  Còn Faith, cái tên (có nghĩa là “Chung Thủy”) rất hợp với cô vợ của chàng, cũng ló mái đầu đội mũ xinh xắn của mình ra đường, để làn gió đùa với những chiếc nơ hồng trên mũ khi nàng cất tiếng gọi Goodman Brown.
“Anh yêu ơi,” nàng thỏ thẻ giọng buồn buồn khi kề môi bên tai chàng, “em xin anh hoãn đến bình minh hãy đi, và ngủ lại nhà đêm nay.  Người phụ nữ một thân một mình hay có những giấc mơ và ý nghĩ đôi khi làm nàng sợ cả chính mình.  Anh hãy ở lại với em tối nay, người chồng yêu dấu của em, chỉ một đêm nay trong năm nữa thôi.”
“Em Faith yêu dấu của anh,” chàng Goodman Brown đáp lại,”trọn năm chỉ có đêm nay anh phải đi xa em.  Chuyến đi này, như em biết, anh đi rồi sẽ trở lại, và anh phải đi trước bình minh.  Mình mới cưới nhau có ba tháng, mà sao em đã nghi ngờ anh rồi, cô vợ diu dàng xinh đẹp của anh?”
“Thôi thế thì xin Chúa phù hộ cho anh vậy,” Faith đáp lại, trên mũ có gắn những chiếc nơ hồng, “em cầu xin anh trở về được khỏe mạnh.”
“Amen!” Goodman Brown nói. “Faith ơi, em hãy cầu nguyện và đi ngủ lúc hoàng hôn buông xuống thì em sẽ chẳng bị hại bao giờ.”     
Thế là họ chia tay; và chàng trai trẻ đi theo con đường của mình cho đến khi sắp phải quẹo nơi góc đường cạnh tòa nhà dùng làm chỗ hội họp dân làng, chàng quay lại nhìn, và còn thấy mái đầu của Faith vẫn dõi theo bóng chàng với vẻ buồn bã dù nàng đội mũ có gắn những chiếc nơ hồng. 
“Ôi Faith bé nhỏ đáng thương!” chàng thầm nghĩ, tim đau nhói. “Mình thật tồi tệ khi bỏ vợ đi thế này!  Nàng có nói nàng nằm mộng.  Mình thấy dường như lúc nàng nói trên gương mặt nàng lộ vẻ lo âu, như thể điềm mộng báo cho nàng biết chuyện gì sẽ phải làm tối nay.  Nhưng không, không, nếu biết nàng sẽ chết được.  Nàng qủa là một thiên thần được ban ân sủng trên cõi đời này; và sau đêm nay, mình sẽ bám lấy vạt áo của nàng để cùng theo nàng lên trời.”
Với quyết tâm dũng mãnh hướng về tương lai này, Goodman Brown cảm thấy mình có đủ lý do chính đáng để tiến hành nhanh chóng mục đích xấu chàng hiện có.  Chàng đã chọn theo một nẻo đường tăm tối, đầy cây cối rậm rì nhất trong khu rừng, cây mọc san sát đến nỗi hầu như không còn chỗ để đi, và khi chàng đã đi qua rồi thì cây khép kín ngay.   Chàng chưa bao giờ một thân một mình như thế này; và có một cái gì đó kỳ đặc ở chốn cô tịch này khiến lữ khách không thể biết được ai núp đằng sau vô số thân cây với những cành lá um tùm phủ kín trên đầu; dày đặc đến độ với từng bước chân đơn độc chàng có thể đang đi qua một đám đông người mà không hề thấy họ.
Goodman Brown nhủ thầm, “Đằng sau mỗi thân cây có thể có một tên da đỏ hung ác đang núp.” Rồi sợ hãi liếc nhìn về phía sau, chàng lại nghĩ tiếp, “Biết đâu tên quỷ hung ác ấy đang kề bên hông mình không chừng!
Vừa quay đầu lại, chàng đã đi qua một khúc quanh của lối đi.  Lúc chàng nhìn về phía trước chàng thấy bóng một người đàn ông ăn mặc nghiêm trang chỉnh tề ngồi nơi gốc cây.  Khi Goodman Brown đến gần, ông ta đứng dậy và cùng đi bên cạnh chàng.
“Anh trễ rồi, Goodman Brown à,” người ấy nói.  “ Đồng hồ của khu phố Cổ Miền Nam đã điểm lúc tôi đi qua Boston, và như thế là đã mất trọn 15 phút.”
“Faith giữ tôi lại một hồi.” Chàng thanh niên đáp lại giọng run run trước sự xuất hiện đột ngột của người đồng hành này, dù chàng không hẳn là không mong đợi ông ta.      
Lúc bấy giờ trong rừng trời đã tối nhiều, và tối nhất là chỗ ha người đang đi.  Ánh sáng vừa đủ cho thấy người lữ khách thứ hai khoảng 50 tuổi, thuộc tầng lớp xã hội cũng như Goodman Brown, và khá giống chàng về dáng vẻ hơn là nét mặt.  Tuy vậy, họ trông như hai cha con.  Người lớn tuổi hơn có cách ăn mặc và dáng điệu cũng đơn giản như Goodman Brown, nhưng ông ta có một phonng cách khó tả của một người hiểu đời, một người sẽ không thấy ngại ngùng nếu được ăn tối với ngài Thống đốc hoặc được mời đến triều đình của vua Williams nếu vì công việc ông ta ó thể phải đến những nơi đó.  Nhưng vật duy nhất đáng lưu ý nơi ông ta chính là cây trượng có hình một con rắn đen thật lớn, được đẽo gọt thật kỳ lạ trông nó uốn éo y như rắn thật.  Tất nhiên đấy chỉ là hình rắn giả lừa mắt trần do ánh sáng chập chờn gây ra.     
“Đến đây, Goodman Brown,” người cùng đi với chàng cất tiếng gọi.  “Bắt đầu đi thế này là chậm rồi đấy.  Anh hãy cầm lấy cây trượng của tôi nếu anh đã thấy mệt sớm như thế.”
“Ông bạn à,” Goodman Brown đang đi chậm bỗng chàng dừng lại nói. “tôi đã giữ đúng thỏa thuận sẽ gặp ông tại đây rồi, giờ mục đích của tôi là muốn quay về chỗ của mình.  Tôi ngần ngại không muốn đề cập đến điều ông muốn nói.”
“Ngươi nói thế à?” người đàn ông nói với con rắn, miệng mỉm cười.”Dù sao chúng ta hãy đi tiếp đã, vừa đi vừa nói cho ra lẽ, và nếu tôi không thuyết phục được anh, anh sẽ quay trở lại.  Chúng ta mới đi vào trong rừng có một đoạn ngắn thôi mà.”
“Đi quá xa, quá xa rồi!” Goodman kêu lên, nhưng không ý thức rằng chàng đang bước đi tiếp.  “Cha tôi chưa bao giờ đi vào rừng có việc như thế này, cả ông của tôi trước đây cũng không bao giờ đi như vầy.  Chúng tôi là những người lương thiện, những con chiên ngoan đạo từ thời các vị thánh tử đạo; liệu tôi sẽ trở thành người mang tên Brown đầu tiên và kết...”
“ý anh muốn nói ‘kết bạn với người như vầy, phải không?”người lớn tuổi nhận xét, tìm cách diễn dịch việc mình dừng lại.  “Anh nói phải lắm, Goodman Brown ạ!  Lâu nay tôi quen biết rõ gia dình anh như một người trong nhóm những người theo Thanh giáo;  đấy không phải chuyện nhỏ đâu.  Tôi đã giúp ông của anh, lúc ấy ông là tuần viên (cảnh sát/người giữ trật tự) trong làng, khi ông ấy lấy roi quất người đàn bà theo phái Quaker trên đường làng Salem; và cũng chính tôi đã đem đến cho cha anh bó đuốc làm với thông ba lá thắp từ bếp lửa nhà tôi để đốt cháy một ngôi làng Da Đỏ trong cuộc chiến tranh Vua Philip* dẫn đầu.  Cả hai người, ông và cha anh, đều là bạn tốt của tôi.  Chúng tôi đã cùng nhau đi lại trên lối mòn này nhiều lần, và sau nửa đêm trở về vui vẻ.  Vì họ tôi sẽ vui lòng kết bạn với anh.”
“Nếu những gì ông nói qủa có thật,” Goodman Brown đáp, “tôi lấy làm ngạc nhiên vì cha ông tôi chẳng hề nói cho tôi biết chuyện này; hoặc, thành thực mà nói, tôi sẽ chẳng ngạc nhiên chút nào, vì tôi biết rằng nếu có những lời đồn đãi như thế hẳn ông cha tôi đã bỏ xứ New England này đi lâu rồi.  Chúng tôi là những người biết cầu nguyện, hơn nữa, chúng tôi làm việc đàng hoàng, và không chấp nhận những gì tàn ác như vậy.”
“Tàn ác hay không tàn ác,” người lữ khách với chiếc trượng uốn éo hình con rắn nói, “Tôi quen biết rất nhiều người ở vùng New England này.  Các vị trợ tế của nhiều nhà thờ từng uống rượu hiệp thông với tôi.  Các quan chức trong vùng bầu tôi làm chủ tịch.  Những nhà làm luật cai trị miền thuộc địa theo giáo phái Puritan đều ủng hộ lợi ích của tôi.  Ngay cả Ngài Thống đốc  và tôi –Nhưng thôi đây là chuyện mật của tiểu bang.”
“Sao lại có chuyện như thế?” Goodman Brown trố mắt kinh ngạc nhìn người đồng hành trông thật bình thản của mình.  “ Dù sao đi nữa, tôi chẳng liên hệ gì với ngài Thống đốc và hội đồng làng; họ có cách của họ và họ không có gì để phải nói tới một nhà nông quèn như tôi.  Nhưng nếu tôi tiếp tục đi với ông thế này, làm sao tôi còn dám nhìn vào mắt ông cụ đức hạnh tốt là vị mục sư của chúng tôi ở làng Salem?  Ôi, giọng của cụ ấy sẽ làm tôi run sợ vào ngày Sabbath và ngày học giáo lý.” 
---
Notes:
*King Philip’s War (1675-1676) còn gọi là chiến tranh Narragansett vĩ đại: cuộc chiến giữa thổ dân Mỹ ở New England do tù trưởng Metacom, tức "King Philip,"lãnh đạo, chống lại di dân Anh và đồng minh Da Đỏ của họ, được xem là một trong những cuộc xung đột đẫm máu nhất trong lịch sử Mỹ.  Những người Narragansett là nhóm thổ dân lớn nhất ngụ tại miền nam New England vào thời đó.
https://www.britannica.com/event/King-Philips-War
Nãy giờ người lữ khách lớn tuổi hơn nghiêm nghị lắng nghe; nhưng đến đây ông ta bỗng bật ra cười một hơi, không kềm chế được, khiến cả người ông ta rung lên đến nỗi cây trượng hình giống con rắn của ông trông có vẻ cũng uốn éo theo ông như đồng cảm thật sự.
“Ha! ha!  ha!” ông ta vẫn cười lớn tiếng, rồi ráng kềm mình lại, ông nói, “Này, anh Goodman Brown, hãy đi tiếp, đi tiếp, nhưng chớ có làm tôi chết vì cười nhé.”
“À, thôi để kết thúc vấn đề ngay,” Goodman Brown nói tỏ vẻ rất bực bội, “còn Faith, vợ tôi nữa.  Chuyện này sẽ khiến tâm hồn nhỏ bé dịu dàng của nàng rất đau buồn; tôi thà tan nát lòng mình còn hơn để Faith chịu như thế.”
“ Không, nếu qủa thế,“ người kia trả lời, “anh Goodman Brown à, tôi chẳng muốn vì 20 người đàn bà như cái bà đang đi khệnh khạng trước mặt chúng ta kia mà Faith phải bị hại.”
Vừa nói ông ta vừa chỉa cây trượng vào một bóng người đàn bà đi phía trước, Goodman Brown nhận ra đó là một phụ nữ  rất ngoan đạo và gương mẫu, người đã từng dạy anh giáo lý vấn đáp khi anh còn nhỏ, và là cố vấn đạo đức tâm linh cho anh, cùng nhà truyền giáo và ngài phó tế Gookin.
“Thật kỳ lạ bà Goody Cloyse lại đi vào chốn rừng hoang vu vào lúc trời tối như vầy,” chàng nói.  “Nhưng nếu ông bạn cho phép, tôi sẽ đi băng ngang cánh rừng cho đến khi chúng ta bỏ lại người đàn bà Thiên Chúa giáo này phía sau.  Vì bà ấy không biết ông, bà có thể hỏi tôi đang đi với ai và đi đâu.”
“Anh đã nói thế thì anh cứ đi vào rừng, để tôi đi theo con lộ này vậy.”    
Nói là làm, chàng trai trẻ quay đi, nhưng cẩn thận quan sát người đồng hành với mình lúc đó đang đi trên đường thật nhẹ nhàng cho đến khi ông chỉ còn cách người đàn bà một cây trượng.  Trong khi ấy bà ta rảo bước thoăn thoắt nhanh hơn so với tuổi của bà, vừa đi bà vừa lẩm nhẩm cái gì đó không rõ, hẳn là bà đang cầu nguyện.  Người lữ khách giơ cây trượng ra đụng vào sau cổ nhăn nheo của bà với đầu trượng giống như đuôi rắn.
“Đồ quỷ dữ!” bà lão ngoan đạo la to lên.
“Thế ra Goody Cloyse biết đây là bạn xưa của bà à?” người lữ khách lên tiếng khi đứng đối mặt với bà và tựa vào cây gậy uốn éo của mình.  
“À, thật thế à, ngài khả kính đấy sao?” bà già hiền từ cất tiếng nói lớn.  “Vâng, quả thật thế, và ngài trông y như hình dạng của Goodman Brown, người mà tôi đã có lời đồn đãi hồi xưa, tức là ông nội của anh chàng ngốc nghếch có cùng tên hiện giờ.  Nhưng – ngài khả kính có tin không? –cây chổi của tôi đã biến mất một cách lạ lùng, tôi nghi nó bị mụ phù thủy không bị xử treo cổ tên là Goody Cory lấy cắp, và cũng thế, khi tôi làm lễ xức dầu bằng nước rau cần hoang (smallage), pha chế với hoa ngũ đài vàng (cinquefoil), và hoa bờm sói màu tím (aconite/wolf’s bane),”
“trộn với bột lúa mì và mỡ của trẻ sơ sinh,” bóng người có dạng giống lão Goodman Brown nói thêm.
“À, thế ngài cũng biết công thức pha chế dầu xức,” bà già nói lớn, tiếng nghe lanh lãnh. “Như tôi nói, tôi đã sẵn sàng đến dự buổi họp, và không có ngựa nên tôi quyết định đi bộ vì họ cho tôi biết rằng tối nay sẽ có một chàng trai trẻ đễ mến đến dự lễ hiệp thông.  Nhưng bây giờ nếu ngài khả kính cho tôi vịn cánh tay ngài, thì chỉ trong chớp mắt chúng ta sẽ đi đến đó ngay.”
"Không thể được," người kia đáp.  "Goody Cloyse, tôi không thể để bà vịn cánh tay của tôi được, nhưng bà có thể dùng cây trượng này nếu bà muốn."
Nói xong người ấy ném cây trượng xuống cạnh chân bà già, tại đấy có lẽ cây trượng được hóa thành rắn thật, vì trước kia nó vốn là một trong những khúc cây được chủ nó cho những đạo sĩ Ai cập mượn.  Tuy nhiên, Goodman Brown không hề biết về sự kiện này.  Chàng trố mắt ngước nhìn kinh ngạc, rồi khi nhìn xuống lại, chàng không còn thấy Goody Cloyse và cây trượng đâu nữa, chỉ còn thấy người đàn ông đi với chàng đang đứng một mình, bình tĩnh chờ chàng như thể không có chuyện gì xảy ra. 
"Bà già ấy dạy tôi giáo lý đó," chàng trai trẻ nói; một lời bình phẩm thật đầy ý nghĩa.
Họ lại đi tiếp; vừa đi người lữ khách lớn tuổi vừa thúc giục người đồng hành với mình đi nhanh hơn và kiên trì theo lối mòn ấy, ông ta ăn nói khôn khéo đến độ lý luận của ông như phát xuất từ trong thâm tâm người nghe, chứ không phải do ông tự nghĩ ra.  Trên đường, ông ta bẻ một cành cây phong để làmgậy, và ông bắt đầu tước các nhánh nhỏ hãy còn ướt sương đêm. Ngay khi ngón tay ông chạm vào, kỳ lạ thay các nhánh cây ấy liền héo khô ngay như thể chúng bị phơi ngoài nắng cả tuần.  Thế là cả hai người ung dung đi tiếp cho đến khi tại một chỗ trũng tối tăm trên đường, Goodman Brown đột ngột dừng lại ngồi trên một gốc cây đã bị đốn và từ chối không chịu đi tiếp nữa. 
“Này ông,“ chàng bướng bỉnh nói, “tôi đã quyết rồi.  Tôi sẽ không nhích thêm một bước nào nữa để tiếp tục lo chuyện này.  Sao cái bà già chết tiệt ấy lại chọn đi theo quỷ dữ trong khi tôi cứ nghĩ bà ta sẽ đi lên thiên đàng:  có phải vì lý do ấy mà tôi phải bỏ nàng Faith yêu dấu của tôi để theo bà ta không?”
“Rồi anh sẽ suy nghĩ chính chắn hơn,” người kia bình thản nói. “Hãy ngồi nghỉ một chốc đã; và khi nào anh muốn đi tiếp, cây gậy của tôi sẽ giúp anh.”
Chẳng nói gì thêm, ông ta ném cành cây phong cho người cùng đi với mình, và khuất dạng thật nhanh như thể ông đã biến mất vào chỗ tối tăm sâu thẳm ấy.  Chàng thanh niên ngồi bên con lộ trong chốc lát, vỗ tay lớn tự khen mình, thầm nghĩ sáng mai khi đi gặp vị giáo sĩ lòng chàng sẽ nhẹ nhàng thanh thản biết bao, và chàng sẽ không phải tránh né ánh mắt của ngài phó tế Gookin hiền hậu.  Rồi chàng sẽ được ngủ một giấc thật an lành tối nay, mà nếu không quyết định như thế chàng sẽ phải trải qua một đêm tối dữ tợn.  Nhưng giờ thì khác, tối nay sẽ thật trong sáng ngọt ngào làm sao trong vòng tay của Faith! Đang miên man với những ý nghĩ thú vị và tốt lành như vậy chàng bỗng nghe thấy tiếng vó ngựa trên đường, chàng nghĩ mình nên ẩn mình nơi mép rừng vì chàng biết rõ mục đích tội lỗi đã khiến chàng đi đến đây, dù bây giờ chàng rất vui mừng đã quay lưng, không dấn thân đi tiếp nữa. 
Tiếng vó ngựa va tiếng người cỡi ngựa nghe rõ dần, nghiêm nghị tỉnh táo, nghe biết đó là những người có tuổi.  Các âm thanh ấy hoà vào nhau vang vang trên con lộ, cách chỗ chàng trai trẻ đang núp độ một vài thước*, nhưng vì chỗ ẫy trũng sâu và tối tăm, chàng không thể thấy cả người lẫn ngựa.  Mặc dù bóng họ có quẹt vào các nhánh cây bên lề đường, chàng vẫn không thể thấy họ cả khi họ thóang đi qua vùng có chút ánh sáng mờ mờ từ trên trời rọi xuống.  Goodman Brown khi cuối xuống khi nhón gót, vẹt càng cây qua một bên, lấy can đảm thò đầu ra nhìn, nhưng vẫn không thể thấy họ được.  Chàng cảm thấy bực bội vì, nếu qủa thật có chuyện này xảy ra, thì chàng dám thề rằng chàng đã nghe thấy tiếng vị giáo sĩ và viên phó tế Gookin, cùng im lặng đi cạnh nhau như họ thường làm mỗi khi họ phải đi làm lễ thánh hay thi hành một mục vụ nào đó.  Khi họ đến gần đủ để chàng nghe thấy, một trong hai người cưỡi ngựa dừng lại đổi dây cương.
Người có giọng giống như viên phó tế noí:
“Thưa ngài, tôi thà không dự tiệc thánh chứ không thể bỏ cuộc họp tối nay được.  Họ nói với tôi rằng một số người trong họ đạo của chúng ta đến từ Falmouth hay xa hơn thế nữa, lại có người từ Connecticut và Rhode Island đến dự, ngài ra còn có người của các bộ tộc Da Đỏ biết rành các phù phép, hơn cả người giỏi nhất trong số chúng ta nữa.  Hơn thế nữa, lại có một cô gái trẻ xinh đẹp cũng sẽ đến làm lễ gia nhập giáo đoàn nữa.”           
“Tốt lắm, ngài phó tế Gookin ạ.” Giọng nói nghiêm nghị của vị giáo sĩ vang lên,”Hãy thúc ngựa mà đi không thôi chúng ta sẽ trễ.  Ngài biết là chúng ta chẳng làm gì được cho đến khi chúng ta có mặt ở đấy.”
Tiếng vó ngựa lại vang lên; và giọng nói lại văng vẳng trong không gian một cách kỳ lạ giữa chốn rừng rậm, nơi trước đây không hề có người của nhà thờ tụ tập hay một con chiên nào đến để cầu nguyện cả.  Vậy thì những vị tu hành này đi đâu mà phải vào sâu nơi hoang dã của ngoại đạo thế này?  Chàng Goodman Brown trẻ tuổi vịn lấy một nhành cây, chàng bỗng thấy mình sắp quỵ ngã xuống đất, cháng váng như muốn xỉu vì tâm tư đau đớn trĩu nặng.  Chàng ngước nhìn bầu trời, không còn tin có bầu trời trên đầu mình nữa.  Vậy mà vẫn còn khung trời xanh thẫm với những vì sao sáng trên trời cao.  
---
*1 yard=0.91 meters
Goodman Brown la to lên: “Trên có Trời, dưới có Faith, tôi thề sẽ đứng vững không bị quỷ dữ lung lạc!”
Trong khi chàng vẫn còn ngước nhìn vòm trời tối đen thăm thẳm, hai tay chắp lại cầu nguyện, dù lúc ấy không hề có một ngọn gió, lại có một đám mây bay ngang qua và che khuất các vì sao sáng.  Chàng vẫn còn thấy chút bầu trời xanh, nhưng ngay trên đầu chàng lại không thấy được, vì bị đám mây đen bay vụt về phương bắc che khuất.  Trên không trung, chừng như từ trong đám mây ấy vẳng ra những tiếng nói lộn xộn, không rõ ràng.  Có lúc chàng tưởng mình có thể phân biệt được đấy là giọng nói của những người dân trong làng chàng ở, giọng đàn ông, giọng đàn bà, giọng người ngoan đạo cùng giọng kẻ không biết đạo lý là gì, nhiều người chàng đã từng gặp tại bàn hiệp thông và những người khác chàng từng thấy họ gây náo loạn nơi quán rượu.  Liền sau đó, các âm thanh ấy lại trở nên không rõ ràng nữa, khiến chàng ngờ rằng mình chẳng hề nghe thấy tiếng gì cả ngoại trừ tiếng rì rào của rừng già, thì thầm dù trời lặng gió.  Rồi một loạt tiếng nói lớn mạnh rất quen thuộc, tiếng mà hàng ngày chàng từng nghe thấy giữa thanh thiên bạch nhật trong làng Salem của chàng, chứ chưa hề nghe từ trong đám mây đêm như bây giờ.  Có tiếng một phụ nữ trẻ than thở, tuy trong lời than đó có đượm chút gì đó buồn buồn, nàng van xin người ta giúp nàng việc gì đó mà có lẽ nếu đạt được rồi nàng sẽ đau khổ.  Đám đông người mà chàng không hề thấy mặt, trong đó có cả người thánh thiện lẫn kẻ tội lỗi, dường như đều khuyến khích nàng đi tiếp. 
“Faith!” Goodman Brown kêu to, giọng chàng thật thống thiết, tuyệt vọng; và tiếng dội của rừng thẳm cũng gào lên như chế nhạo chàng, “Faith! Faith!như thể những tên vô lại cũng đang cuống cuồng tìm nàng khắp chốn rừng hoang.
Tiếng kêu thống thiết, giận dữ và kinh hoàng của người chồng đau khổ như xé tan đêm đen, chờ đợi tiếng vợ mình đáp lại.  Có tiếng la to nhưng liền bị tiếng người xì xào còn to hơn nữa át đi, khiến nó tan loãng mất trong tiếng cười từ xa vọng đến, ngay khi đám mây đen bay vụt qua, chỉ còn lại bầu trời trong và yên lặng phía trên đầu Goodman Brown.  Nhưng rồi một vật gì đó bay phớt nhẹ qua trên không trung và vướng lại nơi một nhánh cây.  Chàng thanh niên chụp lấy nó, và thấy trong tay mình một chiếc nơ màu hồng.
“Faith của tôi đã đi mất rồi!” chàng gào lên sau một phút mất bình tĩnh.  “Không còn gì tốt lành trên đời này nữa; và tội lỗi chỉ là danh xưng.  Hỡi ma quỷ, ngươi cứ đến đi; thế giới này đã thuộc về ngươi rồi đó.”
Hóa điên lên vì quá thất vọng, chàng cười rú lên, cầm lấy cây trượng và lại đi tiếp, nhanh đến độ như bay chứ không còn đi bộ hay chạy nữa.  Con đường trở nên hoang vu và thâm u hơn, và lối đi nhòa hẳn, không rõ ràng nữa, rồi cuối cùng cũng mất dấu, chỉ có chàng giữa miền hoang vu tối đen, lao về phía trước theo bản năng xua đẩy con người về phía ma quỷ.  Toàn bộ khu rừng chỉ có những âm thanh rùng rợn, tiếng cây cối rít, tiếng hú của thú hoang, tiếng reo hò của người Da Đỏ, tiếng gió lúc thì rền vang như tiếng chuông nhà thờ từ xa vọng lại, lúc lại gầm gừ quanh chàng, như thể thiên nhiên đang cười nhạo khinh bỉ chàng.  Nhưng chính chàng mới là cái kinh hoàng chính trong cảnh tượng ấy, và chàng không cần tránh những điều kinh hoàng khác ở đó nữa.  
"Ha! ha! ha!" Goodman gầm lên khi gió cười nhạo chàng.  "Để nghe xem ai cười lớn nhất.  Đừng hòng làm ta sợ phù phép của ngươi. Hỡi các phù thủy, thầy bùa, người Da Đỏ nhảy múa lên đồng, hỡi quỷ dữ hãy đến đây.  Goodman Brown đã đến rồi.  Có thể các ngươi sợ hắn cũng như hắn sợ các ngươi vậy." 
Quả thực, khắp cả khu rừng đầy ma quỷ không có gì trông kinh hoàng hơn hình thù của Goodman Brown.  Chàng cứ tiếp tục bay qua những cây thông tối đen, tay quơ gậy một cách điên cuồng, lúc thì nguyền rủa Thượng Đế thậm tệ, lúc lại cười hô hố khiến cả khu rừng dội lại tiếng cười như thể lũ quỹ dữ đang ở quanh chàng.
Con quỷ trong hình thù của nó còn ít ghê sợ hơn khi nó nổi cơn thịnh nộ qua lốt người.  Cứ thế kẻ điên loạn lao tới trước theo con đường của mình, cho đến khi anh ta thấy chập chờn giữa đám cây cối một ánh sáng đỏ rực trước mặt, giống như cành lá và thân cây bị đốt cháy sau khi người ta phát quang rừng, khiến lửa cháy đỏ rực cả vùng trời ngay nửa đêm.  Chàng dừng lại, như thể cơn bão tố cuốn chàng đến đấy bỗng lắng dịu, và chợt nghe tiếng thánh ca từ xa vọng đến ngày một rõ hơn, với nhiều người cùng hát một cách trang trọng.  Chàng biết âm điệu bài hát ấy; đó là bài hát quen thuộc của ca đoàn thường hát cho nơi hội họp dân làng.  Lời bài hát chìm mất, nhưng lại được kéo dài với một điệp khúc không phải bằng tiếng người hát mà bằng tất cả các âm thanh của chốn hoang dã tối đen cất lên điệu rền rĩ, chói tai.  Goodman Brown la to, nhưng tai chàng cũng không nghe thấy tiếng mình la vì nó đã hòa cùng với tiếng kêu của rừng hoang.
Trong một tích tắc im lặng, chàng len lén tiến tới cho đến khi ánh sáng chóa loà trước mắt chàng.  Ở một đầu của vùng đất trống chung quanh bao bọc bởi cả một rừng cây sừng sững tối đen có một tảng đá nhô lên, trông có vẻ như bàn thờ hay một bục giảng thô thiển của thiên nhiên, với bốn trụ thông đang cháy trên ngọn bao quanh, tuy thân thông vẫn còn nguyên vẹn, giống như những ngọn đèn cầy thắp cho buổi họp ban đêm.  Những tàng cây  lớn che phủ phía trên tảng đá đều đang cháy, ngọn lửa bốc cao ngất bầu trời về đêm, và từng chập soi rọi cả cánh đồng.  Mỗi nhánh cây và lá dùng để trang trí cũng đang bốc cháy.  Mỗi khi tàn lửa đỏ bay lên rồi rơi xuống, một cộng đoàn rất đông người lại được chiếu sáng và hiện ra rồi biến mất trong bóng tối, rồi lại hiện ra trong khoảng tối đen, khiến cho giữa vùng rừng hiu quạnh lại xuất hiện đám đông người.
Goodman Brown nói: “Một nhóm người nghiêm trang mặc tòa màu đen.”
Và họ quả như vặy thực.  Trong số họ, chập chờn trong tranh tối tranh sáng, có những gương mặt mà ngày hôm sau chàng sẽ gặp tại hội đồng quản hạt, và những gương mặt khác chàng thường gặp vào những ngày Sa bát ̣(Sabbath), những gương mặt ngước lên trời thật thành kính, nhân hậu quỳ trên những hàng ghế cầu nguyện hay trên bục giảng thánh thiện trong làng. Có người khẳng định vợ ngài Thống đốc cũng có mặt ở đó. Thế nào cũng phải có cả các mệnh phụ phu nhân mà bà quen biết, cùng vợ của những ông chồng danh giá, rồi những quả phụ, rất đông người, có cả các nữ tỳ theo kiểu xưa, ai ai cũng đáng kính, rồi còn có những cô gái tr̉ẻ xinh xinh, nơm nớp lo sợ mẹ canh chừng theo dõi.
Goodman Brown cảm thấy choáng ngợp, có thể vì những luồng ánh sáng bất ngờ rọi qua cánh đồng tối tăm, mà cũng có thể vì chàng nhận ra một loạt những thành viên trong nhà thờ làng Salem, những người nổi tiếng sống đời rất đạo hạnh thánh thiện.  Ngài Phó tế cao niên hiền hậu đã đến, và đang chờ bên cạnh vị thánh tôn quý, tức nhà truyền đạo khả kính của mình.  Nhưng, thật bất kính thay, xen lẫn với những vị trang nghiêm, danh giá và ngoan đạo này, những bậc trưởng thượng của nhà thờ, những mệnh phụ trung chuyên và các trinh nữ tinh khôi thanh khiết ấy lại là những tên đàn ông hoang đàng, và các mụ đàn bà nhớp nhúa, những kẻ điếm đàng sẵn sàng làm bất kể điều gì đê tiện hèn mạt, thậm chí có những kẻ còn bị tình nghi đã phạm trọng tội.  Thật kỳ lạ khi chứng kiến người tốt không hề biết xa lánh kẻ tàn ác, và kẻ phạm tội cũng không cảm thấy xấu hổ trước bậc thánh thiện.  Đứng xen lẫn trong đám kẻ thù da trắng của mình là những pháp sư người Da Đỏ, hay còn gọi là powwow, những người từng làm rừng cây phải khiếp sợ với lời mật chú ghê gớm của họ, hay hơn cả phép phù phù thủy người Anh dùng. 
"Nhưng Faith đâu rồi?" Goodman thầm nghĩ, và với hy vọ̣ng, chàng thấy lòng mình hồi hộp.
Thánh ca khác với lúc trước lại trỗi lên, giờ với tiết điệu chậm và buồn, nghe như tiếng tâm tình ai oán, hòa cùng lời ca diễn tả tất cả những gì con người có thể biết về tội lỗi, và còn hàm chứa những nhiều điều hơn cả tội lỗi nữa. Con người không thể lường được trong đó có cả những câu chuyện của quỷ dữ. Lời hát cứ ngân vang; và điệp khúc của rừng hoang lại trỗi lên xen giữa lời ca nghe như âm thanh trầm lắng nhất của đàn organ; cùng với chuỗi dài đồng ca thê thảm đó là một thứ âm thanh nghe như tiếng gió rú, tiếng nước chảy xiết, tiếng thú hoang gầm vang, và đủ thứ âm thanh khác của rừng hoang hỗn lọan cùng hòa lẫn nhau, và hòa theo tiếng của kẻ tội lỗi để bày tỏ lòng tôn kính đối với ông hoàng của muôn loài.  Bốn cây thông đang cháy bốc lửa lên thật cao, làm lộ ra những hình thù và mặt người thật kinh dị trên các vòng hoa bằng khói tỏa trên đám người vô đạo đang tụ họp.  Ngay khi ấy lửa trên tảng đá bắn lên đỏ rực, tạo thành một vòng cung sáng chói phía trên bệ đá, và trên bệ bỗng xuất hiện một cái bóng.  Với lòng thành kính phải nói rằng cái bóng ấy không có nét gì tương tự, về cả cách ăn mặc lẫn bộ điệu, với các đấng tu hành trang nghiêm ở nhà thờ vùng New England.
“Hãy đem đến đây những người mới cải đạo!”một tiếng nói to vang dội cả cánh đồng, rồi mất  hút về phía cánh rừng.
Khi nghe thấy tiếng ấy Goodman Brown từ trong bóng cây tối đen bước tới gần cộng đoàn, một cộng đoàn mà chàng cảm thấy đồng cảm với một thứ tình anh em đáng ghê tởm từ tất cả những gì độc ác có trong thâm tâm.  Chàng gần như có thể thề rằng chàng thấy bóng người cha quá cố đang nhìn xuống từ một vòng hoa bằng khói, vẫy tay kêu chàng tiến tới, trong khi một người phụ nữ với vẻ thất vọng lại xua tay ra dấu cho chàng hãy lùi lại.  Có phải đó là mẹ chàng không?  Nhưng chàng không có sức lùi bước, và cũng không có sức cưỡng lại việc bước tới nữa, ngay cả trong tư tuỏng cũng không, khi nhà truyền giáo và ngài phó tế già hiền hậu Gookin đã nắm chặt cánh tay chàng và dẫn chàng đến tảng đá đang cháy rực.  Cùng đi đến đó có một bóng một phụ nữ thon thả đeo mạng che mặt, được dẫn đi giữa Goody Cloyse, bà giáo sùng đạo dạy lớp giáo lý vấn đáp, và Martha Carrier, người đã nhận lời hứa của ma quỷ để trở thành nữ hoàng cõi địa ngục --một mụ phù thủy bất trị.  Và thế là những người cải đạo đứng đấy, dưới láng trại làm bằng lửa đỏ.
Bóng đen lên tiếng: “Chào mừng các con ta đã đến đây dự buổi hiệp thông với đồng loại của mình.  Các con đã thấy bản thể và số phần của mình vẫn tươi trẻ. Này các con, hãy quay nhìn lại phía sau!”
Ho quay lại; và bỗng dưng trong màn lửa loé lên bóng những kẻ thờ phượng ma quỷ, với nụ cười đón chào đầy thâm ý đen tối hiện ra trên từng gương mặt.
Cái bóng như con hồ tinh nói tiếp: “Có mặt đủ cả những người mà hồi còn nhỏ các con đã kính trọng.  Các con cho họ thánh thiện hơn mình, và xa lánh tội lỗi các con gây ra khi đem đọ tội lỗi ấy với đời sống đứng đắn luôn nguyện cầu mong mỏi được lên thiên đàng của họ.  Nhưng tất cả bọn họ đều có mặt trong buổi lễ đàn này. Tối nay các con sẽ được ta cho phép được biết về những hành tung bí mật của họ: những vị trưởng thượng râu bạc nơi nhà thờ đã thì thầm lời khiếm nhã với các cô hầu dọn phòng cho họ; có những phụ nữ chỉ mong được mặc áo tang, nên trước khi đi ngủ, họ cho chồng uống một liều thuốc và để chồng nằm ngủ với mình đêm cuối cùng; có những người trẻ chưa mọc râu mà đã thúc đòi thừa hưởng gia tài của cha chúng; có những cô gái đẹp, má đỏ môi hồng, lại đào những huyệt nhỏ trong vườn nhà, và mời ta, người khách duy nhất đến dự tang lễ của đứa trẻ thơ.  Bằng trái tim con người thương cảm cho tội lỗi, các con sẽ đánh hơi thấy mùi tội ác ở mọi chốn nơi nhà thờ, trên giường ngủ, ngoài phố, trên cánh đồng hay trong rừng rậm, và các con sẽ vui mừng thấy toàn thể trái đất đều nhuộm một màu tội phạm, một vũng máu thật to.  Còn hơn thế nữa. Các con sẽ chiếm được vòi nước tuôn trào mọi nghệ thuật ác độc nhất khi các con đi sâu vào chốn thâm cung tội lỗi trong lòng mỗi người, cái vòi không ngừng cung cấp những thôi thúc xấu xa, hơn cả sức mạnh của loài người, và hơn cả sức mạnh của chính ta ở đỉnh cao của nó, khi sức mạnh đó hiển thành hành động.  Và bây giờ, hỡi các con của ta, hãy nhìn vào mặt nhau.”
Họ nhìn nhau, và trong ánh lửa của những ngọn đuốc thắp lên từ hỏa ngục, anh chàng khốn nạn nhìn thấy nàng Faith của anh đang run sợ trước cái bàn thờ tội ác ấy, và người vợ cũng trông thấy chồng mình. 
“Này các con, các con đang đứng  đấy,’ cái bóng ấy lên tiếng, giọng trầm và nghiêm nghị, buồn bã với vẻ thất vọng đáng sợ, như thể bản chất thánh thiện trước đây hắn từng có vẫn còn có thể than vãn cho loài người khốn khổ chúng ta.  “Dựa vào tấm lòng đối với nhau, các con đã từng hy vọng đức hạnh không phải chỉ có trong mơ.  Giờ đây các con không còn bị lừa phỉnh nữa.  Bản chất loài người vốn xấu xa, tội lỗi.    Xấu xa tội lỗi phải là hạnh phúc duy nhất của các con.  Lần nữa ta chào mừng các con đã đến dự lễ hiệp thông với giống người của mình.”
“Xin chào mừng,” những kẻ thờ phượng ma quỷ đồng thanh lập lại,  tiếng lộ vẻ vừa thất vọng vừa đắc thắng. 
Và thế là họ, có lẽ là cặp vợ chồng duy nhất, đứng đó, vẫn còn ngần ngừ chưa bước tới chỗ tội ác của thế giới tối ám.  Một cái chậu trống không nằm lõm vào trong tảng đá.  Nó chứa nước bị ánh sáng chói rực làm có màu đỏ chăng, hay đấy là máu?  Cái bóng quỷ ấy nhúng tay vào cái chậu, chuẩn bị làm phép bí tích  lên trán của cặp vợ chồng, để họ được dự phần vào bí ẩn tội lỗi, để họ ý thức rõ hơn nữa tội lỗi được dấu kín của những người khác, cả trong tư tưởng lẫn hành động, hơn cả ý thức về tội của chính họ.  Anh chồng liếc nhìn cô vợ xanh xao của mình, và Faith  cũng liếc nhìn anh.  Nhìn thêm lần nữa, họ chỉ thấy hai kẻ khốn nạn, và họ rung sợ trước cái họ và người phối ngẫu của họ để lộ ra cũng như về điều họ thấy!
Anh chồng la to lên: “Faith! Faith! Hãy nhìn lên trời, và hãy chống cự lại kẻ hiểm ác.”
Chàng không biết Faith có nghe lời chàng hay không.  Nói xong chàng thấy mình đang ở giữa đêm đen tĩnh mịch, đang lắng nghe tiếng gió gầm gừ, nặng nề tan biến vào khu rừng.  Chàng loạng choạng tựa vào tảng đá, và cảm thấy nó vừa lạnh vừa ẩm; khi ấy một cành cây nãy giờ vẫn cháy rắc lên má chàng những hạt sương lạnh giá. 
Sáng hôm sau chàng thanh niên Goodman Brown chậm chạp đi trên con đường làng Salem, trừng mắt nhìn chung quanh chàng như kẻ thất thần.Vị giáo sĩ già hiền từ đang thả bộ dọc theo nghĩa địa để ăn sáng thấy ngon miệng hơn, vừa đi ông vừa nghiền ngẫm bài giảng của mình; khi đi ngang, ông làm dấu ban phước lành cho Goodman Brown.  Chàng vội vàng tránh vị khả kính thánh thiện ấy như tránh kẻ mình không ưa. Vị phó tế Gookin đang hành lễ trong một nhà dân, và người ta có thể nghe những lời cầu nguyện hiền lành của ông vang ra từ cửa sổ.  Goodman Brown nói: “Tên phù thủy đó cầu nguyện Thượng đế nào thế?”  Goody Cloyse, tín hữu Ky Tô  già xuất chúng, đang đứng dưới nắng sớm nơi khung mắc cáo, giảng giáo lý cho cô bé đem bình sữa sáng đến cho bà.  Goodman Brown liền kéo đứa bé đi như thể kéo nó ra khỏi bàn tay ma quỷ. Khi chàng rẽ vào góc đường cạnh bên nhà tụ họp dân làng, chàng nhìn thấy mái đầu của Faith, với những dây nơ hồng, đang lo lắng nhìn về phía trước, và khi thấy bóng chàng, nàng vui mừng quá, liền chạy nhanh ra ngoài đường và suýt nữa nàng đã hôn chàng trước mặt làng xóm. Nhưng Goodman Brown nhìn vào mặt nàng một cách thật ghiêm khắc và buồn bã, rồi đi tiếp mà không chào hỏi nàng gì cả. 
Phải chăng Goodman Brown đã ngủ quên trong rừng và chỉ nằm mơ một giấc mơ ngông cuồng về buổi họp mặt của các phù thủy?  
Nếu bạn đọc muốn, xin cứ nghĩ như vậy; nhưng trời ơi, đối với Goodman Brown đó lại là một giấc mơ về điềm xấu xa tàn ác.  Kể từ đêm nằm mộng thấy điều kinh hoàng đó, chàng bỗng trở thành một người nghiêm khắc, buồn bã, trầm tư một cách bí hiểm, một người không tin ai, nếu không muốn nói là tuyệt vọng.  Vào ngày Sa bát, khi cộng đoàn đang hát bài thánh ca, chàng không thể lắng nghe được bài hát ấy vì một bài đầy tội lỗi khác đã ùa vào tai chàng làm át cả âm điệu thánh ca.  Khi vị giáo sĩ từ trên bục cất tiếng giảng đạo hùng hồn, đầy nhiệt huyết, tay đặt trên quyển Thánh kinh đang mở ra, rao giảng về những sự thật thiêng liêng của tôn giáo chúng ta, về cuộc đời của các vị thánh sống và cái chết của các vị tử đạo, về tương lai tràn đầy ân phúc hay khốn khổ cùng cực, thì Goodman Brown mặt mày tái xanh, nơm nớp lo sợ mái nhà sẽ đổ sập xuống đầu kẻ phỉ báng Chúa già nua kia cùng đám người đang ngồi nghe.  Nửa đêm Goodman Brown thường bất ngờ thức dậy, tránh né người vợ của mình; và vào buổi sáng hay chiều tối, khi cả nhà quỳ gối cầu nguyện, chàng lại cau mày, lầm bầm trong miệng, nhìn vợ một cách nghiêm khắc, rồi quay đi.  Đến cuối đời, khi chỉ là một xác chết già nua được người ta đem đi mai táng, theo sau  là Faith, một người đàn bà luống tuổi, cùng lũ con cháu –một đám tang khá trang nghiêm, có vài người hàng xóm tháp tùng – người ta không hề khắc lên bia mộ của Goodmn Brown một lời hy vọng nào vì ông qua đời vào giờ quỷ ám.                                              
1835                                                  
             

Nguồn:
Trích trong Great American Short Stories.  Do Wallace and Mary Stegner chu bien.  (New York, NY: DELL Publishing Co. INC., 1957), trang 53-68.
          










Saturday, April 27, 2019

Chương III Thời Kỳ Lãng Mạn (1820-1860) -Phần 1: Các Nhà Văn Nghị Luận và Các Nhà Thơ

                                                                          Chương III 
                          Thời Kỳ Lãng Mạn (1820-1860) - Các Nhà Văn Nghị Luận và Các Nhà Thơ 


Phong trào Lãng mạn khởi đầu từ Đức, nhanh chóng bành trướng đến Anh, Pháp và các nước khác, du nhập sang Mỹ vào năm 1820, sau khi William Wordsworth và Samuel Taylor Coleridge làm một cuộc cách mạng về thi ca ở Anh với việc xuất bản tác phẩm Lyrical Ballads*.  Tại Mỹ cũng như tại Âu châu cách nhìn mới luôn thu hút nghệ sĩ và trí thức.  Nhưng điểm khác biệt quan trọng là ở Mỹ phong trào Lãng mạn đến vào thời kỳ nước Mỹ đang mở rộng bờ cõi và đã có phong cách diễn đạt riêng của mình.  Việc định hình danh tính dân tộc Mỹ và khuynh hướng lý tưởng cùng cảm xúc sôi nổi dâng cao qua phong trào Lãng mạn đã góp phầm khiến nhiều kiệt tác ra đời vào thời kỳ “Phục hưng Mỹ.”
Tư tưởng Lãng mạn chủ yếu xoay quanh nghệ thuật như nguồn cảm hứng, đời sống tâm linh con người và vẻ đẹp của thiên nhiên, qua cách diễn đạt bằng ngôn ngữ hình ảnh, phát triển một cách tự nhiên.  Các tác giả Lãng mạn cho rằng chỉ có nghệ thuật, không phải khoa học, mới có thể diễn đạt hay nhất chân lý phổ biến.  Họ nhấn mạnh tầm quan trọng của nghệ thuật biểu cảm đối với cá nhân và xã hội.  Trong bài nghị luận tựa đề “Nhà Thơ” (1844), Ralph Waldo Emerson, một người có thể nói có ảnh hưởng lớn nhất trong thời kỳ Lãng mạn, đã khẳng định:

Lời này dành cho tất cả những ai sống theo lẽ thật, và đứng lên đáp ứng nhu cầu diễn đạt qua ngòi bút.  Trong tình yêu, nghệ thuật, trong cuộc chạy đua vật chất, khi làm chính trị, hay khi lao động, lúc vui chơi, chúng ta nghiên cứu tìm cách nói lên những bí ẩn đau khổ của mình.  Con người chỉ là một nửa; nửa kia là những gì người ấy diễn đạt ra thành lời.

Phát triển cái tôi cá nhân trở thành chủ đề chính; và phương pháp chủ đạo là ý thức về tự ngã.  Theo thuyết Lãng mạn, nếu tự ngã và thiên nhiên là một, thì ý thức về tự ngã không phải là ngõ cụt ích kỷ bế tắc, mà sẽ là tri thức rộng mở ra tận vũ trụ. 

Nếu tự ngã hòa làm một với toàn thể nhân loại, cá nhân có bổn phận đạo đức là cải cách những bất công xã hội, và làm giảm thiểu nỗi khổ của loài người.  Ý niệm về tự ngã,  một ý niệm mang nghĩa ích kỷ đối với các thế hệ trước, đến lúc ấy đã được định nghĩa lại.  Những từ kép mới xuất hiện mang nghĩa tích cực như “phát triển tiềm năng cá nhân,” “diễn đạt về cái tôi,” “độc lập cá nhân.” Vì chủ thể tự ngã duy nhất trở nên quan trọng, ngành tâm lý học trở nên quan trọng. Những hiệu ứng và thủ thuật nghệ thuật kỳ đặc được phát triển để khêu gợi trạng thái tâm lý khinh khoái, thăng hoa. “ Kỳ vĩ,” hiệu ứng mà cái đẹp tuyệt vời, vô cùng (thí du khung cảnh nhìn từ trên đỉnh núi) khiến ta cảm thấy thán phục, kinh sợ, trước sự bao la và trước sức mạnh mà con người không thể hiểu được.
Đối với phần lớn các nhà thơ, nhà văn viết các bài nghị luận, phong trào Lãng mạn được cho là tích cực và phù hợp.  Núi non, sa mạc và các vùng có khí hậu giống như khí hậu nhiệ̣t đới của nước Mỹ rộng lớn là hiện thân của tính kỳ vĩ đó. Tinh thần lãng mạn dường như đặc biệt thích hợp với nền dân chủ Mỹ: nó nhấn mạnh chủ nghĩa cá nhân, khẳng định giá trị của người dân thường, và đi tìm các giá trị thẩm mỹ đạo đức từ trí tưởng tượng dạt dào nguồn cảm hứng.  Ralph Waldo Emerson, Henry David Thoreau và những người cùng tư tưởng với họ đều lấy cảm hứng từ tinh thần lạc quan mới mẻ này của phong trào Lãng mạn.  Phong trào này đã gặp được mảnh đất màu mỡ để phát triển tại vùng New England.
Siêu Nghiệm Luận   
Phong trào Siêu nghiệm luận là một phản ứng đối lại với khuynh hướng lý tính của thế kỷ 18, và cũng là sự thể hiện xu hướng nhân đạo nói chung của tư tưởng thế kỷ 19.  Phong trào này cơ bản dựa trên niềm tin về sự hợp nhất giữa thế giới và Thượng Đế.  Linh hồn của cá nhân, một tiểu vũ tru ̣(tiểu ngã), được cho là một với vũ trụ (đại ngã). Độc lập cá nhân và cá nhân chủ nghĩa được phát triển trên niềm tin vào tính hợp nhất giữa linh hồn của cá nhân và Thượng Đế.  Phong trào Siêu nghiệm luận gắn bó chặt chẽ với vùng Concord, một ngôi làng nhỏ thuộc vùng New England, cách Boston 32 km về phía Tây. Concord là miền đất định cư nằm sâu trong đất liền đầu tiên của những thực dân vùng vịnh Massachusetts thời kỳ đầu. Với rừng rậm bao bọc chung quanh, Concord trước đây cũng như hiện nay là một thị trấn êm đềm, đủ gần để tiếp cận với các buổi diễn thuyết, quán sách và những trường đại học vùng Boston và được trau giồi học vấn thâm sâu, dù vậy nó vẫn ở xa thành phố lớn nên được yên tĩnh.  Concord cũng là chiến trường đầu tiên trong cuộc Cách mạng Mỹ, và bài thơ ca ngợi cuộc chiến đấu đó của Ralph Waldo Emerson, bài “Khúc Hát Concord,” đã chứa đựng một trong những vần thơ ban đầu nổi tiếng nhất của văn chương Mỹ:



Cạnh chiếc cầu thô sơ bắc ngang vùng nước ngập
Lá cờ của họ tung bay trước ngọn gió tháng Tư
Nơi này những người chủ nông trang đã xếp hàng dàn trận
Và đã bắn phát súng vang dội toàn thế giới.

Concord là thuộc địa đầu tiên của những họa sĩ đồng quê, và là nơi đầu tiên đem đến lối thoát tâm linh văn hóa thay thế cho khuynh hướng nặng nề vật chất kiểu Mỹ.  Đây là nơi diễn ra những cuộc nói chuyện về các vấn đề cao thâm, và nơi có cách sống đơn giản (cả Emerson và Henry David Thoreau đều có vườn trồng rau).  Emerson, người dọn đến Concord năm 1834, và Thoreau là những người gắn bó nhiều nhất với thị trấn này, nhưng nó cũng thu hút nhà tiểu thuyết Nathaniel Hawthorne và nữ sĩ theo phong trào nữ quyền  Margaret Fuller, nhà giáo dục Bronson Alcott ̣̣(thân phụ của tiểu thuyết gia Luisa May Alcott), và nhà thơ William Ellery Channing.  Câu lạc bộ Siêu nghiệm luận bắt đầu hình thành vào năm 1836, và gồm các thành viên như Emerson, Thoreau, Fuller, Channing, Bronson Alcott, Orestes Brownson (một nhà truyền giáo hàng đầu), Theodore Parker (nhà truyền giáo và đấu tranh đòi bãi bỏ chế dộ nô lệ), và những người khác.
Các tác giả Siêu nghiệm luận cho xuất bản tạp chí The Dial bốn lần mỗi năm. Tạp chí này tồn tại được bốn năm, đầu tiên do Fuller làm chủ bút, sau đó là Emerson.  Họ quan tâm đến các nỗ lực cải cách xã hội bên cạnh các vấn đề văn học.  Một số nhà Siêu nghiệm luận chủ trương bãi bỏ chế độ nô lệ, và một số tham gia vào việc xây dựng các cộng đồng tốt đẹp lý tưởng thí điểm như Brook Farm (được Nathaniel Hawthorne mô tả trong tác phẩm The Blithedale Romance), và Fruitlands.


Khác với các nhóm ở Âu châu, những nhà Siêu nghiệm luận Mỹ không ra bản tuyên ngôn riêng.  Họ đòi phải có nét riêng của mỗi cá nhân , phải có cách nhìn đặc thù của từng người.  Phái lãng mạn Siêu nghiệm luận của Mỹ đã đưa chủ nghĩa cá nhân cấp tiến lên đến đỉnh cao của nó. Các nhà văn Mỹ thường xem họ là những nhà thám hiểm cô đơn vượt ngoài xã hội và các quy chế ước thúc. Người anh hùng kiểu Mỹ, như nhân vật thuyền trưởng Ahab của Herman Melville, Huck Finn của Mark Twain, Arthur Gordon Pym của Edgar Alan Poe, thường phải đối mặt với nguy nan, thậm chí một hủy diệt ̣(cái chết) nào đó, trong khi theo đuổi một cuộc hành trình siêu lý tính để đi tìm chính mình.  Đối với nhà văn lãng mạn Mỹ, không có gì được ban cho cả.  Các quy ước văn chương và xã hội, chẳng những không hữu ích, mà còn nguy hiểm nữa.  Có một áp lực mạnh mẽ buộc nhà văn Mỹ cùng một lúc phải khám phá ra một hình thức, nội dung và âm điệu văn chương thật sự nguyên tuyền kiểu Mỹ (không hề sao chép, mô phỏng theo kiểu Anh hay Cựu thế giới).  Qua những kiệt tác ra đời trong ba thập niên trước cuộc Nội chiến Mỹ (1861-1865) rõ ràng các nhà văn đã cố gắng vượt bậc để đối mặt với thử thách lớn lao này.
Ralph Waldo Emerson (1803-1882)
Ralph Waldo Emerson, nhân vật vĩ đại bao trùm lên thời đại của ông, ý thức rõ  sứ mạng tôn giáo của ông.  Mặc dù nhiều người chỉ trích ông đã đánh đổ Thiên Chúa giáo, ông giải thích rằng, đối với ông, “để trở thành một người giảng đạo giỏi, nhất thiết ngườii ấy phải rời bỏ nhà thờ.”  Bài diễn văn ông đọc vào năm 1838 tại trường Thần học của Harvard nơi ông từng học đã làm Harvard không niềm nở đón tiếp ông trong 30 năm liền.  Trong bài đó ông tố cáo nhà thờ hành xử “như thể Thượng Đế đã chết,” đặt nặng giáo điều và bóp chết tinh thần con người.
Triết lý của Emerson từng bị cho là đầy mâu thuẫn, và quả thực ông luôn ý thức tránh xa việc xây dựng một hệ thống tri thức logic bởi vì một hệ thống lý tính như vậy sẽ phủ định niềm tin của ông vào trực giác và tính linh động. Trong tiểu luận “Tự Lực” Emerson đã nhận xét: “Khư khư bám lối mòn một cách ngu xuẩn là trò tinh quái của những kẻ đầu óc nhỏ nhoi.”  Nhưng khi kêu gọi khai sinh chủ nghĩa cá nhân Mỹ lấy nguồn cảm hứng từ thiên nhiên thì ông lại vô cùng kiên định.  Phần lớn những tư tưởng chủ đạo của ông như cần phải có một cách nhìn mới mẻ về dân tộc Mỹ, phải căn cứ trên kinh nghiệm cá nhân, như ý niệm về linh hồn đại ngã trùm khắp vũ trụ, và học thuyết bù trừ, đều được nói đến trong tác phẩm đầu tiên được ông cho xuất bản với tựa đề Thiên Nhiên  (1836).  Tiểu luận này bắt đầu như sau:
Thời đại của chúng ta là thời đại nhìn về quá khứ.  Nó dựng nhà mồ cho ông cha.  Nó viết tiểu sử, lịch sử và những lời phê bình.  Những thế hệ đi trước đã tận mắt chiêm ngưỡng Thượng Đế và thiên nhiên.  Còn chúng ta, chỉ biết (chiêm ngưỡng) qua cách nhìn của tiền nhân.  Tại sao chúng ta không nên tận hưởng một mối liên hệ nguyên tuyền (trực tiếp) với vũ trụ?  Tại sao chúng ta không nên có một nền thi ca nội quán (nhìn thẳng vào chính mình) chứ không phải thi ca dựa theo truyền thống, một tôn giáo mặc khải cho chúng ta, mà không phải lịch sử của họ, những ngừơi đến từ Cựu thế giới?  Được thiên nhiên ôm ấp trọn mùa, với triều dâng của thiên nhiên chảy quanh thấm nhuộm trong người chúng ta, và bằng quyền năng ban cho chúng ta, thiên nhiên đã mời gọi chúng ta hãy hành động sao cho phù hợp hài hòa, vậy tại sao chúng ta phải đào bới tìm kiếm trong mớ xương cốt tro tàn của quá khứ?  Hôm nay mặt trời vẫn chiếu sáng.  Trên các cánh đồng đầy những bông vải và cỏ gai*.  Chúng ta có miền đất mới, con người mới và tư tưởng mới.  Chúng ta hãy đòi hỏi những tác phẩm, luật lệ và cách thờ kính riêng của chúng ta.

--
*Flax: một giống cỏ cho hạt làm thức ăn giàu dinh dưỡng và cho sợi để chế biến nhiều thứ hữu ích.


Emerson yêu thích thiên tài về cách ngôn của nhà nghị luận Pháp thế kỷ 16 Montaigne..  Có lần ông nói với Bronson Alcott rằng ông muốn viết một cuốn sách giống như sách của Montaigne, “đầy những nét vui nhộn, có thơ ca, thương mại, thần học, triết học, có các giai thoại, cả chuyện tục." Ông than phiền văn phong trừu tượng của Alcott làm “mất đi ánh sáng chiếu trên chiếc mũ người ta đội, hoặc rơi vào cái thìa đứa trẻ đang dùng.”

Với cái nhìn đậm nét tâm linh và thực tiễn, lối diễn đạt như cách ngôn này làm Emerson rất sống động lôi cuốn.  Một trong số các nhà Siêu nghiệm luận vùng Concord đã khéo so sánh việc nghe Emerson giảng như “đi lên Thiên đàng bằng xích đu.”  Phần lớn tri thức tâm linh ông có đến từ những gì ông đọc về các tôn giáo Đông phương, nhất là Ấn độ giáo, Khổng giáo, và Mật giáo của đạo Hồi.  Thí dụ, bài thơ “Bhrama”* của ông dựa trên các tài liệu Ấn độ giáo để khẳng định một trật tự vũ trụ vượt ngoài nhận thức hữu hạn của con người.
Nếu kẻ giết người khát máu** nghĩ mình đã giết
Hoặc kẻ bị giết nghĩ mình đã chết.
Họ đều không biết rõ những cách tinh tế
Mà tôi giữ lấy, truyền trao, và đổi lại lần nữa.

Xa xôi hay đã quên rồi với tôi vẫn gần gũi
Bóng tối và ánh sáng đều như nhau;
Thánh thần đã biến mất lại hiện ra cho tôi;
Và với tôi nhục vinh chỉ là một.

Họ cho kẻ không biết có tôi là kẻ bệnh hoạn;
Khi họ cho tôi bay bổng, tôi là đôi cánh,
Tôi là kẻ hoài nghi và là điều bị hoài nghi,
Và tôi là bài thánh ca người Bà la môn hát

Các thánh thần dũng mãnh buồn bã mơ ước có được chỗ ở của tôi
Và than vãn vô ích về Bảy Điều thiêng liêng
Nhưng em, hỡi người tình rụt rè của kẻ hiền thiện!
Lại tìm thấy tôi, và quay lưng với Trời.
Bài thơ này được xuất bản trong số đầu tiên của nguyệt san Atlantic vào năm1857 đã khiến người đọc chưa từng biết đến Bhrama, vị thần tối cao của Ấn độ giáo, linh hồn trường tồn và vô biên của vũ trụ, thấy rất khó hiểu.  Emerson đã khuyên độc giả của ông như sau: “Hãy bảo họ gọi đó là Jehovah thay vì Bhrama.” 
Nhà phê bình người Anh Matthew Arnold đã nói những tác phẩm bằng tiếng Anh quan trọng nhất của thế kỷ 19 là những bài thơ của Wordsworth và những bài nghị luận của Emerson.  Là nhà thơ và nhà văn vĩ đại, Emerson có ảnh hưởng xuyên suốt một chuổi dài nhiều thế hệ nhà thơ Mỹ, gồm cả Walt Whitman, Emily Dickinson, Edwin Arlington Robinson, Wallace Stevens, Hart Crane và Robert Frost. Ông cũng là người có ảnh hưởng rất lớn đối với triết học của John Dewey, George Santayana, Friedrich Nietzsche, và William James.

---
* Brahma: vị thần tối cao trong Ấn độ giáo, sáng tạo ra thế giới.  (Brahman: linh hồn vũ trụ; Brahmin: giai cấp cao quý nhất trong xã hội đẳn.g cấp Ấn độ giáo, tức giai cấp tăng lữ Bà la môn).
Trong bài thơ này Emerson đóng vai vị thần sáng tạo thế giới Brahma, bản thể của tất cả vạn vật trong vũ trụ.  Bài thơ ý nói con người chỉ có thể thấy mình trọn vẹn khi nhận thức được rằng tiểu ngã của mình chỉ là một phần của đại ngã vũ trụ bao la. 

**Giai cấp Kshatriya, tướng quân trị vì đất nước, bản chất hung hăng, nên gắn liền với màu đỏ.  (Kshatriya từ gốc Sanskrit katra, có nghĩa là cai trị)
                                                                           *** 
Henry David Thoreau (1817-1862)

Henry David Thoreau, dòng dõi người Pháp và Ái nhĩ lan, sinh ra tại Concord, và đã chọn ở lại đấy suốt đời. Xuất thân trong gia đình nghèo, giống như Emerson, ông theo học tại Harvard và tiến thân từ đó.  Suốt đời ông giảm thiểu nhu cầu sinh hoạt đến mức tối thiểu, và thu xếp sống với rất ít nhu cầu tiền bạc, nhờ đó ông sống độc lập, không phải nhờ đến ai. Về căn bản đời sống của ông chính là sự nghiệp của ông.  Là người không tuân thủ theo khuôn khổ có sẵn, ông luôn cố gắng sống theo những nguyên tắc chặt chẽ của riêng mình.  Sự cố gắng này chính là chủ đề cho nhiều bài viết của ông. 
Kiệt tác Walden (1854), tức Đời Sống Trong Rừng, của Thoreau là kết quả thời gian ông sống hai năm, hai tháng và hai ngày (từ năm 1845 đến năm 1847) trong một căn chòi gỗ bên hồ Walden, trong khu đất của Emerson.  Trong tác phẩm này, Thoreau cố ý gom gọn lại đời sống ấy trong một năm.  Tác phẩm được sắp xếp một cách cẩn thận để bốn mùa diễn ra tuần tự một cách tinh tế. Tác phẩm cũng được sắp xếp để các mối bận tâm đời thường đơn giản nhất được trình bày trước (trong phần tựa đề "Kinh tế" ông tả lại những phí tổn cho việc xây căn chòi); khi kết thúc, sách đã đưa đến việc bàn về thiền định, trầm tư khi ngắm nhìn các vì sao.  
Là một người thích đọc du ký, và là tác giả của nhiều sách du ký, nhưng với Walden,ngược lại, Thoreau đã đem lại cho chúng ta một tác phẩm đả phá việc đi đó đây: quyển sách mở ra vùng biên cương nội tâm để tự cá nhân khám phá, điều mà trước đây chưa hề có quyền sách nào ở Mỹ nói đến. Với vẻ khiêm tốn giống cuộc sống khổ hạnh của Thoreau, quyển sách không khác gì sách hướng dẫn sống một đời sống lành mạnh theo lý tưởng cổ điển. Mang đậm nét thi ca và triết học, tác phẩm nghị luận thi vị khá dài này thách thức người đọc hãy khảo sát lại đời sống của mình và hãy sống thực. Việc xây dựng căn chòi, được Thoreau miêu tả rất tỉ mỉ, là một ẩn dụ cụ thể về việc xây dựng tâm hồn một cách cẩn thận.  Trong nhật ký viết vào ngày 30 tháng giêng năm 1852, Thoreau giải thích việc ông chuộng cách sống bám rễ vào một chỗ như sau: "Tôi sợ phải du hành nhiều hoặc phải đi đến những danh lam thắng cảnh, vì tôi e rằng nó có thể hoàn toàn làm tổn hại tâm hồn."   

Phương pháp tịnh tâm và tập trung của Thoreau giống như các kỹ thuật thiền định Á đông. Nét tương đồng này không phải ngẫu nhiên mà có: giống Emerson và Whitman, Thoreau chịu ảnh hưởng của triết lý Ấn độ giáo và Phật giáo. Tài sản ông trân quý nhất là thư viện gồm những sách kinh điển Á đông của ông mà ông đã để Emerson cùng sử dụng. Giống như các nhà văn siêu hình ở Anh cuối thời kỳ Phục hưng, cách diễn đạt sâu rộng của ông chịu ảnh hưởng của các tác phẩm kinh điển Hy La, rất mạch lạc rõ ràng, dí dỏm, và giàu ẩn dụ

Qua tác phẩm Walden, Thoreau kiểm chứng lại các lý thuyết Siêu nghiệm, ông tái hiện lại kinh nghiệm chung của người Mỹ vào thế kỷ 19: kinh nghiệm sống ở vùng biên địa.  Thoreau thấy rằng đóng góp của ông bằng ngôn ngữ và ngòi bút sẽ làm mới lại ý thức về nét hoang sơ của nước Mỹ. Trong nhật ký của ông có một đoạn viết vào năm 1851 không ghi ngày như sau:

Văn chương Anh, từ thời những người hát rong đến thời của các nhà thơ vùng hồ (Lake poets: William Wordswoth, Samuel Taylor Coleridge, Robert Southey…), Chaucer, Spencer, và Shakespeare, kể cả Milton, không hít thở không khí tươi mát, nghĩa là nó không tự nhiên. Về cơ bản đó là một nền văn chương đã được thuần hóa và văn minh hóa, chịu ảnh hưởng của Hy La.  Một nền văn chương với những khu rừng xanh ngát, và vị anh hùng trong rừng là Robin Hood.  Trong nền văn chương ấy, thi ca nói lên khá nhiều về tình yêu thiên nhiên gần gũi và vui tươi, nhưng lại không tả cảnh thiên nhiên nhiều như thế. Theo biểu đồ thời gian, nền văn học ấy cho chúng ta biết khi nào những thú hoang trong văn chương, chứ không phải con người hoang dã của văn học, sẽ trở thành tuyệt chủng. Chúng ta cần có một nước Mỹ riêng.

Walden đã gợi hứng cho William Butler Yeats, một nhà thơ theo chũ nghĩa dân tộc nhiệt thành người Ái nhĩ lan, sáng tác bài thơ “Hòn Đảo Innisfree.” *  Trong khi đó bài nghị luận “Khi người dân không nghe lời” với chủ thuyết bất bạo động dựa trên nền tảng đạo đức cần thiết cho người dân có quyền không tuân theo những luật pháp bất công.  Bài thơ này là nguồn cảm hứng thúc đẩy phong trào giành độc lập cho Ấn độ của Mahatma Gandhi, và cho cuộc đấu tranh đòi nhân quyền cho người Mỹ đen của Martin Luther King vào thế kỷ 20. 

Thoreau là nhà Siêu nghiệm luận hấp dẫn nhất ngày nay vì tác phẩm của ông phản ánh ý thức bảo vệ môi trường, tính độc lập tự lực tự cường, tinh  thần kiên trì đấu tranh chống chế độ nô lệ, lý thuyết chính trị về sự bất tuân của người dân và về đấu tranh hòa bình do ông chủ trương.  Tư tưởng của Thoreau ngày nay vẫn sống động mới mẻ, và cách hành văn đầy thi vị, sáng sủa với thói quen quan sát kỹ  lưỡng của ông vẫn rất hiện đại. 

Walt Whitman (1819-1892)

Sinh ra tại Long Island, New York, Walt Whitman vừa hành nghề thợ mộc vừa sáng tác.  Ông là người của quần chúng nhân dân, và với tác phẩm mới lạ độc đáo và tuyệt vời của mình, ông đã nói lên tinh thần dân chủ của nước Mỹ. Chủ yếuWhitman là người tự học. Ông rời ghế nhà trường năm 11 tuổi để đi làm; do đó ông không được học trường lớp kiểu chính quy truyền thống, nhưng chính học như thế đã khiến các nhà văn Mỹ trở nên kẻ bắt chước phong cách văn chương Anh.  Tác phẩm Lá Cỏ (Leaves of Grass) (1855) của Whitman, tập thơ mà ông dành cả đời để viết đi viết lại, gồm bài “Bài Ca Về Tôi” (“Song of Myself”), một bài thơ bất hủ độc đáo nhất từ trước đến lúc ấy do một người Mỹ viết.  Lời khen nồng nhiệt của Emerson và một vài người khác dành cho tập thơ táo bạo này đã khẳng định tên tuổi Walt Whitman trên thi đàn mặc dù tác phẩm lúc đó chưa thành công rộng rãi.

Là một tác phẩm có tầm nhìn sâu rộng ca ngợi mọi sáng tạo, Lá Cỏ lấy nguồn cảm hứng chủ yếu từ các bài viết của Emerson, đặc biệt bài nghị luận tựa đề “Nhà Thơ” trong đó Emerson đã tiên liệu rằng sẽ có một mẫu người thi sĩ mạnh mẽ có tâm hồn rộng mở, một nhà thơ cho tất cả mọi người, một nhà thơ kỳ lạ khiến người ta phải sững sờ như Walt Whitman. Thể thơ tự do, mới mẻ, không vần không điệu, thơ ca ngợi tính dục một cách cởi mở, thơ nói về tình cảm dân chủ mãnh liệt, thơ khẳng định tính lãng mạn cao độ khi nói rằng con người nhà thơ là một với bài thơ, là một với vũ trụ và độc giả, thơ như thế đã vĩnh viễn thay đổi nền thi ca Mỹ.

Lá Cỏ (Leaves of Grass) bao la, sinh động, và tự nhiên như lục địa Mỹ châu.  Nó chính là bản anh hùng ca mà nhiều thế hệ nhà phê bình văn học Mỹ đã lên tiếng khát khao đòi hỏi mặc dù họ không biết rõ. Dòng chuyển động nhấp nhô trong bài thơ “Bài Ca Về Tôi” nghe như tiếng nhạc rạo rực tâm hồn.

Những khúc gỗ và đá sỏi lát đường rầy rời bỏ tôi
Tôi đi quanh những rặng núi cao, cây cỏ của tôi che khắp lục địa
Tôi đồng hành với cái nhìn của mình 

Bài thơ chứa đầy muôn vàn hình ảnh và âm thanh cụ thể.  Những chú chim của Whitman không phải là những "bóng ma có cánh" rập theo quy ước thi ca.  "Con cò với đốm vàng trên đỉnh đầu" của thi sĩ "đêm đêm đi đến đầm lầy bắt cua nhỏ để ăn." Whitman dường như có mặt trong mọi thứ ông nhìn thấy hoặc tưởng tượng ra.  Ông quả là người của quần chúng. "Đi tàu đến từng hải cảng để vui chơi và mạo hiểm/ Vội vã đi cùng đ́ám đông hiện đại, tôi cũng hăng hái và sốc nổi như mọi người." Nhưng đồng thời ông cũng là một với từng cá nhân đau khổ, ông là "Người mẹ của thời xa xưa, bị xử tội vì là phù thủy, bị củi khô thiêu cháy, đám con đứng nhìn trân trân.....Tôi là kẻ nô lệ bị bức hại/ Nhăn nhó đau đớn vì bị đàn chó cắn....Tôi là người lính cứu hỏa tả tơi bị đánh gãy xương ngực...."

Hơn mọi tác giả khác, Whitman đã tạo ra huyền thoại về một nước Mỹ dân chủ.  "So với tất cả các dân tộc khác trong mọi thời đại, có thể nói người Mỹ có thiên nhiên nên thơ toàn vẹn nhất.  Nước Mỹ chủ yếu là bài thơ vĩ đại nhất." Khi Whitman viết dòng này, ông đã bạo dạn đánh đổ ý kiến thường cho rằng nước Mỹ quá thô tháo và mới mẻ không thể nào nên thơ được.  Ông đã tạo ra một nước Mỹ của trí tưởng tượng tự do vượt ngoài thời gian, với cư dân là những người mang tinh thần tiên phong đế từ tất cả các quốc giaNhà văn và thi sĩ người Anh D. H. Lawrence đã nói rất đúng khi gọi Whitman là nhà thơ của "con đường cái quan thênh thang."
Chúng ta có thể thấy giá trị vĩ đại của Whitman qua nhiều bài thơ ông sáng tác như "Qua Sông Bằng Phà Brooklyn," “Rời Chiếc Nôi Vẫn Còn Đong Đưa Mãi,” “Khi Hoa Huệ Cuối Cùng Nơi Thềm Cửa Nở” --một bài thơ ai điếu về cái chết của Abraham Lincoln.  Một tác phẩm quan trọng khác là bài nghị luận dài của ông mang tựa đề “Nhãn Quan Dân Chủ” (1871) được viết trong cơn sốt chạy theo vật chất của nền công nghệ “Mạ Vàng.” Trong bài nghị luận này Whitman đã chỉ trích nước Mỹ một cách đích đáng về cái giàu có với nền kỹ nghệ hùng cường phức tạp, che đậy một tâm hồn “khô khan cằn cỗi và trơ trọi tựa sa mạc Sahara.” Ông kêu gọi nên có một nền văn học mới để vực người dân Mỹ sống lại (“Không phải sách cần phải thành sách toàn vẹn, mà chính người đọc sách cần phải thành người toàn vẹn.”).  Nhưng nói cho cùng chính “Bài Ca Về Mình” mới là thi phẩm chủ yếu biến Whitman thành nhà thơ bất tử.  Ở đây ông đã đặt cái tôi lãng mạn ngay trọng tâm bài thơ:


Tôi ca ngợi tôi, tôi hát về tôi
Điều tôi cho là như vậy, bạn cũng cho là như vậy
Vì mỗi nguyên tử thuộc về tôi cũng thuộc về bạn
 

Tiếng thơ của Whitman làm rung động cả độc giả ngày nay bằng lời tuyên ngôn về tính hợp nhất và năng lực của mọi sáng tạo. Ông quả là nhà thơ mới độc đáo chưa từng có.  Thơ ông bật ra như lời tự thuật, biến người thường dân Mỹ thành nhà thi sĩ, biến độc giả thành người sáng tác, và làm cho mãi đến ngày nay người ta vẫn còn phải khám phá về loại thơ thực nghiệm, hữu cơ.
Các Nhà Thơ Bà La Môn
Vào thời đó, những vị Bà La Môn vùng Boston (theo cách người thời đó thường gọi lớp sinh viên học tại Harvard thuộc dòng dõi quyền quý) đã trở thành các bậc thầy văn chương lỗi lạc, học thức uyên bác và được mọi người kính phục của nước Mỹ. Đời sống của họ mang phong cách giàu sang, nhàn nhã theo khuôn mẫu của vùng New England luôn đề cao đạo đức trong phong cách làm việc và xem trọng việc học.

Nếu sống trong thời Puritan trước đó, những vị Bà la môn vùng Boston này hẳn đã là các giáo sĩ; nhưng vào thế kỷ 19, họ là các giáo sư, thường dạy tại Harvard.  Cuối đời họ hay trở thành các đại sứ, và nhận học vị danh dự từ những viện đại học lớn ở Âu châu.  Phần lớn họ đều lui tới và tiếp nhận nền giáo dục của Âu châu.  Họ quen thuộc với tư tưởng học thuật của Anh, Đức, Pháp, và thường thường là tư tuỏng từ Ý và Tây Ban Nha.  Xuất thân từ tầng lớp thượng lưu, nhưng lại ủng hộ dân chủ, các nhà thơ Ba la môn đã truyền đạt quan điểm tao nhã, kiểu Âu châu của họ về mọi vấn đề của nước Mỹ qua các buổi thuyết giảng trước công chúng tại hơn 3000 thính đường, và qua hai tạp chí có ảnh hưởng lớn ở Boston là Tạp Chí Bình Luận Bắc Mỹ và Nguyệt san Atlantic.
Tác phẩm của các nhà thơ Bà la môn đã hòa nhập cả hai truyền thống Mỹ và Âu, và họ tìm cách duy trì tiếp kinh nghiệm mà quốc gia bên hai bờ Đại tây dương đều cùng chia xẻ. Những nhà thơ học giả này cố gắng giáo dục và nâng cao trình độ dân chúng trong vùng bằng cách giới thiệu khía cạnh Âu châu vào văn học Mỹ. Mỉa mai thay, ảnh hưởng của họ nói chung đều bảo thủ.  Họ khăng khăng một mực đòi phải có nội dung và hình thức kiểu Âu châu, họ đã ngăn trở sự phát triển ý thức đặc thù riêng của Mỹ.  Là những người có hảo ý, nhưng nguồn gốc xuất thân đã khiến họ mờ mắt không thấy tính cách mới lạ táo bạo độc đáo của Thoreau, Whitman (người mà họ từ chối không chịu tiếp xúc), và Edgar Alan Poe (người mà ngay cả Emerson cũng xem là “anh chàng say rượu”). Các nhà thơ Bà la môn này là trụ cột của cái gọi là “ truyền thống tao nhã” mà ba thế hệ nhà văn hiện thực Mỹ đã phải chống lại.  Một phần vì ảnh hưởng của họ mờ nhạt, phải mất gần 100 năm sau, những thiên tài đặc thù của Mỹ như Whitman, Melville, Thoreau, và Poe mới được công chúng nhìn nhận trên đất nước họ.
 Henry Wadsworth Longfellow (1807-1882)
Các nhà thơ Bà la môn vùng Boston quan trọng nhất là Henry Wadsworth Longfellow, Oliver Wendell Holmes và James Russell Lowell.  Longfellow, giáo sư ngôn ngữ hiện đại tại Harvard, là nhà thơ được nhiều người biết đến nhất thời đại ấy.  Ông cũng là người gánh trách nhiệm đã đem lại cho người Mỹ ý thức về quá khứ hòa nhập truyền thống Âu châu với Mỹ đầy vẻ huyền thoại, mờ ảo và phi lịch sử.  Ông đã viết ba bài thơ dài về các huyền thoại của thổ dân Mỹ bằng âm vận kiểu Âu châu.  “Evangeline” (1847), “Bài Ca Hiawatha” (1855), và “Chuyện Miles Standish Tán Tỉnh Người Đẹp" ("The Courtship of Miles Standish”) (1858).  Longfellow cũng viết sách giáo khoa về ngôn ngữ hiện đại và một quyển du ký tựa đề Outre-Mer kể lại  những huyền thoại nước ngoài,  phỏng theo quyển Tạp Ghi (Sketch Book) của Washington Irving.  Mặc dù bảo thủ, quy tắc, đa sầu đa cảm, và cách diễn đạt dễ dãi có làm hỏng đi các bài thơ dài của ông, bài thơ trữ tình ngắn du dương như bài “Nghĩa Địa Của Người Do Thái Ở Newport” (1854), “Tuổi Trẻ Đã Mất Của Tôi” (1855), và “Thủy Triều Dâng, Thủy Triều Rút” (1880) c̉ua ông vẫn còn được người đọc mến chuộng. 

James Russell Lowell (1819-1891)

James Russell Lowell, người trở thành giáo sư dạy ngôn ngữ hiện đại tại Harvard sau khi Henry Wadsworth Longfellow về hưu, là một Mathew Arnold* trong nền văn học Mỹ.  Ông nguyên là một nhà thơ, nhưng sau đó dần dần mất đi khả năng làm thơ, và trở thành nhà phê bình và nhà mô phạm được nhiều người kính nể. Là chủ bút tờ The Atlantic, và đồng chủ bút tờ North American Review ông đã có ảnh hưởng to lớn. Bài nghị luận phê bình “Ngụ ngôn cho những nhà phê bình” (1848) là lời khen ngợi vừa vui nhộn vừa đích đáng về các tác giả Mỹ, chẳng hạn ông viết: “Poe xuất hiện với con quạ, giống như Barnaby Rudge**/Ba phần năm ông ấy là thiên tài còn hai phần năm chỉ là sô cô la đậm đặc mà thôi.”

Do ảnh hưởng của vợ ông, Lowell trở thành nhà cải cách cấp tiến, chủ trương bãi bỏ chế độ nô lệ da đen, và ủng hộ phong trào đấu tranh để phụ nữ được quyền đi bầu và bãi bỏ sử dụng lao động trẻ em. Tác phẩm Tài liệu Biglow Tập Một*** đã tạo ra nhân vật Hosea Biglow, một người đàn bà miệng lưỡi chanh chua nhưng lại là nhà thơ thất học trong làng, và là người đòi phải cải cách thi ca viết bằng phương ngữ.  Benjamin Franklin và Philip Freneau đã dùng tiếng nói của người dân làng thông minh để lên tiếng phê phán xã hội.  Lowell cũng làm thơ châm biếm, và ông là người nối kết truyền thống “nhân vật” thời thuộc địa với khuynh hướng hiện thực mới và dòng văn học mang tính cách địa phương, sử dụng phương ngữ đặc thù của từng vùng nở rộ vào những năm 1850, và đơm hoa kết trái với Mark Twain.




------



*Mathew Arnold (1822-1888) là nhà thơ và nhà phê bình văn hóa người Anh thời Victoria.

**Barnaby Rudge là tên nhân vật trong quyển tiểu thuyết lịch sử cùng tên của Charles Dickens với bối cảnh là cuộc nổi dậy Gordon năm 1780.  Nhân vật này là một người đơn giản sống với bà mẹ tên Mary và con quạ̣̣̣̣ tên Grip.  Chính con quạ này đã gợi hứng cho Poe viết bài thơ “Raven.”

***Biglow Papers First Series (Tài liệu Biglow Tập Một): tập thơ châm biếm viết bằng phương ngữ Yankee (vùng New England/các tiểu bang Đông Bắc nước Mỹ) của Lowell đăng trong nhật báo Boston Courier vào những năm 1846-1848, sau được in thành tập thơ vào năm 1848.
 
(Còn tiếp)

Nguồn:
http://ufdc.ufl.edu/AA00011697/00001