Tuesday, January 26, 2021

Chương VIII:Văn Xuôi Mỹ 1945-1990: Chủ Nghĩa Hiện Thực và Văn Xuôi Thử Nghiệm --Phần 5

John Updike (1932- )
Giống như Cheever, John Updike cũng đượoc xem là một tác giả có phong cách riêng, với bối cảnh vùng ngoại ô, chủ đề về đời sống gia đình, suy tư về nỗi buồn tẻ, ưu lự, và đặc biệt là bối cảnh tiểu thuyết của ông thường là vùng biển miền Đông nước Mỹ, tiểu bang Massachusetts và Pennsylvania.
Updike được biết đến nhiều qua năm quyển sách Rabbit của ông, tả lại cuộc đời của một người đàn ông — Harry “Rabbit”Angstrom —qua các bước thăng trầm suốt 4 thập kỷ của lịch sử xã hội và chính trị nước Mỹ.  Rabbit, Hãy Bỏ Chạy Đi/Rabbit, Run (1960) phản ánh những năm 1950, với Angstrom trong vai người chồng trẻ tuổi sống không có mục đích và đầy bất mãn.  Rabbit Sống Dậy/Rabbit Redux (1971) —nhấn mạnh phong trào đi ngược lại truyền thống văn hóa của thập niên 1960 —cho thấy Angstrom vẫn không hề có một mục đích rõ rệt nào, hoặc khả dĩ tìm được một lối thoát ra khỏi cái tầm thường.  Trong quyển Rabbit Giàu Có/Rabbit Is Rich (1981) Harry thành một thương gia giàu có trong thập niên1970, thời kỳ  chiến tranh Việtnam bắt đầu đi vào hồi kết.  Tiểu thuyết cuối cùng Rabbit An Nghỉ/Rabbit at Rest (1990) hé lộ cho ta thấy Angstrom hòa giải với cuộc đời trước khi ông chết vì đau tim trong bối cảnh những năm 1980.  Trong tiểu thuyết ngắn tựa đề Rabbit Được Tưởng Nhớ/Rabbit Remembered xuất bản năm 1995, những người con đã lớn của Rabbit hồi tưởng về cha mình.
Những tiểu thuyết khác của Updike gồm Thú Đầu Người Mình Ngựa/The Centaur* (1963), Những Đôi Tình Nhân/Couples (1968), Một Tháng Chỉ Gồm Ngày Chủ Nhật/A Month of Sundays (1975), Bản Của Roger/Roger’s Version (1986), và S.(l988). Trong một loạt các tiểu thuyết khác mang tên Bech: Bech: Một Quyển Sách/ Bech: A Book (l970),  Bech Trở Lại/Bech Is Back(1982), và Bech Nơi Vùng Vịnh/Bech at Bay (1998). Updike đã sáng tạo ra một tự ngã thứ hai cho mình —một nhà văn mà sự nổi tiếng mỉa mai thay lạ̣̣i đe dọa ông và khiến ông im lặng.  Văn phong của Updile được xem là sáng chói nhất trong các tác giả hiện nay, và những truyện ngắn của ông đều sáng chói về tầm nhìn và sức sáng tạo.  Các tập truyện của ông gồm Vẫn Cánh Cửa Ấy/The Same Door (1959), Trường Nhạc/The Music School (1966), Viện Bảo Tàng và Phụ Nữ/Museums and Women (1972), Xa Quá Không Đi Được/Too Far To Go (1979), và Các Vấn Đề/Problems (1979).

----
*

Centaur là một sinh linh thần thoại, thân là người, còn phần thân dưới là ngựa, có móng và đuôi ngựa.  Có nguồn gốc từ thần thoại Hy lạp, và xuất hiện nhiều trong thần thoại La mã, các centaur biểu trưng cho nam tính, và được cho là những chiến sĩ can trường và trung kiên.

A centaur is a mythical creature with the torso of a man, and the lower body of a horse, complete with hooves and a tail. Originating from Greek mythology, and much of Roman mythology, Centaurs symbolize masculinity, and are supposed to be brave, loyal warriors. 

J.D. Salinger (1919-  )
Là người báo trước chuyện gì sẽ xảy ra trong những năm 1960, Salinger mô tả những cố gắng của con người trốn khỏi xã hồi.  Sinh tại thành phố New York, ông đã thành công lớn trên văn đàn khi cho xuất bản tác phẩm Kẻ Chụp Bắt Trên Cánh Đồng Lõa Mạch Đen/The Catcher in the Rye (1951), nói về một cậu bé 16 tuổi nhạy cảm trốn khỏi ngôi trường nội trú dành cho con giới  thượng lưu mình đang học để đi vào thế giới người lớn bên ngoài để rồi tỉnh mộng trước lối sống vật chất và giả dối của thế giới ấy.  
Khi đượ̣c hỏi cậu muốn trở thành gì, Caulfield trả lời cậu muốn thành "kẻ chụp bắt trên cánh đồng lõa mạch đen," dựa theo trích dẫn không được chính xác từ một bài thơ của Robert Burns.  Cậu bé nhìn mình như một dạng hiệp sĩ da trắng thời đại mới, một người đơn độc bảo vệ cái ngây thơ.  Cậu tưởng tượng một cánh đồg lõa mạch đen to lớn, cây lúa cao đến nỗi một nhóm trẻ con không biết mình đang chạy đi đâu trong lúc đang chơi trong cánh đồng ấy.  Cậu ta là người duy nhất cao lớn tại đây.  "Tôi đang đứng trên bờ vực thẳm cheo leo kinh khủng.  Điều tôi phải làm là tôi phải chụp hết mọi đứa trẻ nhỡ chúng chạy xuống vực."  Việc rơi xuống vực ̣được đồng nhất với việc đánh mất sự ngây thơ —một chủ đề kéo dài suốt thời ấy.   
Những tác phẩm khác của nhà văn ẩn dật và đơn giản này gồm Chín Câu Chuyện Ngắn/Nine Stories (1953), Franny và Zooey/Franny and Zooey (1961), Các Anh Thợ Mộc, Hãy Nâng Cao Sườn Mái Nhà/Raise High the Roof Beam,Carpenters (1963), một tập truyện ngắn đăng trong tạp chí New Yorker Magazine.  Sau khi cho ra đời một chuyện ngắn năm 1965, Salinger, hiện sống ở New Hampshire, đã vắng bóng trên văn đàn nước Mỹ.   

Jack Kerouac (1922-1969) 
Là con trong một gia đình nghèo gốc Canada và Pháp, Jack Kerouac cũng đặt vấn đề về các giá trị của cuộc sống của giai cấp trung lưu.  Khi còn là sinh viên đại học Columbia ở thành phố New York, ông đã gặp các thành viên của nhóm văn học Beat đang hoạt động ngấm ngầm, chưa lộ diện.  Tiểu thuyết của ông chịu ảnh hưởng nhiều tác phẩm gần như tự truyện của Thomas Wolfe.  Lên Đường /On the Road (1957), tác phẩm nhiều người biết đến nhất của ông, mô tả những người trẻ (vào những năm cuối 1940 sang 1950 sang đến giữa 1960) *lang thang khắp nước Mỹ tìm kiếm thực hiện giấc mơ lý tưởng về đời sống cộng đồng và về cái đẹp. Tác phẩm Những Kẻ Cùng Tử Theo Chánh Pháp/The Dharma Bums (1958) tập trung nói về những người có học lang thang đây đó, chống lại văn hóa truyền thống và say mê Thiền Phật giáo. Kerouac cũng là tác giả tập thơ tựa đề Nỗi Buồn Thành Phố Mexico/ Mexico City Blues (1959), và nhiều quyển sách nói về đời sống của ông cùng các "beatniks" như các tiểu thuyết gia thử nghiệm William Burroughs và nhà thơ Allen Ginsberg.


 ------

Beatnik là một hình ảnh theo định kiến luôn được dùng trong giới truyền thông được thịnh hành cuối những năm 1940, 1950 sang đến giữa những năm 1960, phô bày những khía cạnh phô trương bên ngoài của trào lưu văn chương thuộc thế hệ Beat cuối những năm 1940 bước qua đầu và kéo đến giữa những năm 1950.
Beatnik was a media stereotype prevalent throughout the late 1940s, 1950s to mid-1960s that displayed the more superficial aspects of the Beat Generation literary movement of the late 1940s and early to mid 1950s. Wikipedia 



 

Sunday, January 24, 2021

"The Hill We Climb" in English and in Vietnamese

The Hill We Climb

Amanda Gorman

Ngọn Đồi Ta Trèo Lên

Ngày đến, ta tự hỏi, 

khi nào mình có thể thấy ánh sáng

trong thâm u bất tận này?

Nỗi mất mát ta phải gánh chịu.

Biển cả ta phải vượt qua.

Can trường trong lòng quái thú*

When day comes, we ask ourselves, 

where can we find light in this never-ending shade?

The loss we carry. 

A sea we must wade.

We braved the belly of the beast*.

Ta học được rằng 

yên lặng không phải lúc nào cũng là bình yên, 

Cái thường được công nhận, khái niệm “công bằng”là gì, 

không phải lúc nào cũng là công lý.

Thế mà bình minh đã thuộc về ta trước khi ta kịp biết.

Bằng cách nào đó ta đã làm được điều đó.

Bằng cách nào đó ta đã dạn dày sương gió 

đã chứng kiến một đất nước không bị đổ vỡ, 

nhưng vẫn còn dang dở.

We’ve learned that quiet isn’t always peace, 

and the norms and notions of what “just” is 

isn’t always justice.

And yet the dawn is ours before we knew it.

Somehow we do it.

Somehow we weathered and witnessed a nation that isn’t broken, but simply unfinished.

Ta, kẻ kế thừa của một đất nước và một thời đại

nơi cô gái da đen gầy ốm

hậu duệ của những người nô lệ, 

được bà mẹ đơn thân nuôi nấng

có thể ước mơ thành tổng thống, 

bỗng thấy mình đang đọc thơ cho tổng thống nghe.

Vâng, ta vẫn chưa được sáng bóng, 

không phải không tì vết, 

nhưng điều đó chẳng có nghĩa ta đang cố thành lập một hiệp chủng hoàn hảo 

We, the successors of a country and a time

where a skinny Black girl descended from slaves

and raised by a single mother

can dream of becoming president, 

only to find herself reciting for one.

And, yes, we are far from polished, 

far from pristine, 

but that doesn’t mean 

we are striving to form a union that is perfect.

Ta đang cố xây đắp một hiệp chủng nhằm mục đích.

dựng lên một xứ sở hết lòng với mọi nền văn hóa, màu da, mọi tính cách và tình cảnh con người.

We are striving to forge our union with purpose.

To compose a country committed to all cultures, colors, characters and conditions of man.

Và vì thế ta ngước mắt lên, 

không phải để nhìn cái đứng giữa chúng ta, 

mà để nhìn cái đứng trước chúng ta.

Ta đóng lại mối chia rẽ vì ta biết 

để đặt tương lai lên trên hết, 

trước tiên ta phải gạt qua bên những dị biệt.

And so we lift our gaze, 

not to what stands between us, 

but what stands before us.

We close the divide 

because we know

 to put our future first, 

we must first put our differences aside.

Ta buông vũ khí xuống

để có thể dang rộng cánh tay cho nhau.

Ta không tìm cách hại ai 

chỉ tìm cách hòa hợp mọi người

We lay down our arms 

so we can reach out our arms to one another.

We seek harm to none and harmony for all.

Hãy để quả địa cầu, không gì khác hơn, nói rằng đây là sự thật.

Let the globe, if nothing else, say this is true.

dẫu đang đau buồn, ta vẫn lớn mạnh.

dẫu đang bị thương, ta vẫn hy vọng.

dẫu đang mệt mỏi, ta vẫn cố gắng.

nói rằng ta sẽ mãi mãi gắn bó với nhau, 

sẽ chiến thắng vẻ vang.

That even as we grieved, we grew.

That even as we hurt, we hoped.

That even as we tired, we tried.

That we’ll forever be tied together, victorious.

Không phải vì ta sẽ không bao giờ biết thất bại lần nữa

mà vì ta sẽ chẳng bao giờ lại gieo mầm chia rẽ.

Not because we will never again know defeat, 

but because we will never again sow division.

Thánh Kinh dạy ta hãy hình dung 

người người sẽ ngồi dưới gốc cây nho và cây sung của mình, 

và không ai khiến họ khiếp sợ**.

Scripture tells us to envision 

that everyone shall sit under their own vine and fig tree, 

and no one shall make them afraid.**

Nếu ta sống đúng theo thời đại mình, 

thì chiến thắng sẽ không nằm trên lưỡi gươm, 

mà ở nơi những cây cầu ta xây dựng nên.

If we’re to live up to our own time, 

then victory won’t lie in the blade, 

but in all the bridges we’ve made.

Đó là lời hứa dẫn đến không gian rộng mở, 

là ngọn đồi ta trèo lên, 

chỉ cần ta dám làm.

That is the promise to glade, the hill we climb, if only we dare.

Bởi vì làm người Mỹ đâu chỉ là niềm tự hào ta thừa hưởng. 

It’s because being American is more than a pride we inherit.

Mà là quá khứ ta dấn thân vào và là cách ta sửa chữa lại quá khứ.

It’s the past we step into and how we repair it.

Ta đã thấy một thế lực lượng muốn phá nát đất nước, 

không muốn chúng ta cùng nhau chia sẻ. 

mà muốn hủy diệt đất nước, nếu hủy diệt có nghĩa là trì hoãn nền dân chủ.

We’ve seen a force that would shatter our nation, rather than share it.

Would destroy our country if it meant delaying democracy.

Nỗ lực này suýt nữa đã thành công.

And this effort very nearly succeeded.

Nhưng dẫu nền dân chủ có thể từng lúc bị trì hoãn, 

nó không bao giờ vĩnh viễn bị tiêu diệt

But while democracy can be periodically delayed, 

it can never be permanently defeated.

Ta gởi gấm lòng mình vào chân lý và niềm tin này, 

vì trong khi ta hướng nhìn về tương lai, 

lịch sử vẫn dõi mắt nhìn theo ta***.

In this truth, in this faith we trust, 

for while we have our eyes on the future, 

history has its eyes on us.***

Đây là kỷ nguyên chuộc lại sự công bằng

Điều ta đã lo sợ từ khi nó hãy còn phôi thai.

This is the era of just redemption.

We feared at its inception.

Ta không hề cảm thấy mình được chuẩn bị 

để thành người thừa kế giờ phút kinh hoàng như thế.

Nhưng trong giờ phút ấy ta đã tìm thấy sức mạnh 

để viết nên chương sử mới, 

để đem lại hy vọng và tiếng cười cho chính mình. 

We did not feel prepared to be the heirs

of such a terrifying hour.

But within it

we found the power 

to author a new chapter, 

to offer hope and laughter to ourselves.

Vì vậy, dẫu có lần ta đặt vấn đề

Làm sao ta có thể thắng được tai ương?

giờ đây ta khẳng quyết, 

Cách gì tai ương có thể đánh bại được ta?

So, while once we asked, 

how could we possibly prevail over catastrophe, 

now we assert, 

how could catastrophe possibly prevail over us?

Ta sẽ không đi trở lại cái đã qua, 

nhưng tiến tới cái sẽ là: 

một đất nước bầm dập nhưng toàn vẹn, 

nhân ái nhưng can trường, 

mạnh bạo và tự do.

We will not march back to what was, 

but move to what shall be: 

a country that is bruised but whole, 

benevolent but bold, 

fierce and free.

Ta sẽ không quay đầu lại

hay bị lời đe dọa cắt ngang

vì ta biết việc ta trơ ra không hành động

sẽ thành di sản cho thế hệ sau, 

sẽ thành tiền lệ cho tương lai.

Lỗi của ta thành gánh nặng cho họ.

We will not be turned around

or interrupted by intimidation 

because we know our inaction and inertia 

will be the inheritance of the next generation, 

become the future.

Our blunders become their burdens.

Nhưng có một điều chắc chắn.

But one thing is certain.

Nếu ta lấy nhân ái hòa cùng sức mạnh, 

lấy sức mạnh hòa cùng chính nghĩa, 

thì yêu thương sẽ trở thành di sản của ta

và thay đổi là dấu ấn lọt lòng của cháu con.

If we merge mercy with might,

and might with right, 

then love becomes our legacy

and change our children’s birthright.

Vậy ta hãy để lại một đất nước tốt đẹp hơn đất nước ta đã thừa hưởng.

So let us leave behind a country better than the one we were left.

Với từng hơi thở từ lồng ngực dập đồng đen này, 

ta sẽ nâng thế giới thương tật lên thành thế giới tuyệt vời. 

Every breath from my bronze-pounded chest, 

we will raise this wounded world into a wondrous one.

Ta sẽ vươn dậy từ những ngọn đồi vàng miền Tây.

Ta sẽ vươn dậy từ miền Đông Bắc lộng gió.

nơi cha ông lần đầu tiên làm nên cách mạng.

Ta sẽ vươn dậy từ những thành phố ven hồ ở các tiểu bang Trung Tây.

Ta sẽ vươn dậy từ miền Nam nắng nung.

Ta sẽ tái thiết, hòa giải và phục hồi.

We will rise from the golden hills of the West.

We will rise from the windswept Northeast where our forefathers first realized revolution.

We will rise from the lake-rimmed cities of the Midwestern states.

We will rise from the sun-baked South.

We will rebuild, reconcile, and recover.

Và từ mọi ngõ ngách trên quê hương

từ mọi miền mang tên đất nước

dân ta đa dạng và đẹp ngời sẽ hiện lên

 bầm dập mà đẹp ngời. 

And every known nook of our nation

 and every corner called our country

our people diverse and beautiful will emerge

battered and beautiful.

Ngày đến, ta bước ra khỏi bóng thâm u, 

rực lửa không sợ hãi.

Ta thoát ra, những quả bóng mới của bình minh.

Bởi ánh sáng luôn hiện hữu, chỉ cần ta đủ can đảm để thấy ánh sáng.

Chỉ cần ta đủ can đảm để là ánh sáng.

When day comes, we step out of the shade, aflame and unafraid.

The new dawn balloons as we free it.

For there is always light, if only we’re brave enough to see it.

If only we’re brave enough to be it.        

Translated into Vietnamese on January 25, 2021 

Chú thích:

1) Thơ Mỹ được đọc/recite, chứ không ngâm/chant (sing).

2) Bài thơ viết theo dạng thơ tự do, dùng ngôn từ thông thường, không theo khuôn khổ, luật thơ nhất định (free verse/using layman language, without consistent meter pattern or rhyme).  Bài thơ có thể được sắp xếp in ấn, trình bày như một bài văn.  Điều quan trọng là khi đọc lên, ta biết đây là thơ vì âm thanh, hình ảnh, ẩn dụ, và nhiều lớp ý nghĩa vừa trừu tượng vừa sống động hàm chứa trong bài.

3) Trong bài, nhà thơ dùng nhiều alliteration, lập lại cái phụ âm hay nguyên âm đầu để tạo âm điệu khi đọc lên:
battered and beautiful; corner called our country; rebuild, reconcile, and recover; inaction and inertia; interrupted by intimidation; benevolent but bold; braved the belly of the beast....

4) Bài thơ dùng hình ảnh và ẩn dụ lấy trong Thánh Kinh Micah 4:4**, câu hát trong vở nhạc kịch Hamilton của Lin-Manuel Miranda, khi George Washington nói lời từ giã: “History has its eyes on me,” ***và trong In the Belly of the Beast (1981) của Jack Henry Abbott (1944-2002), kể về kinh nghiệm của mình trong hệ thống nhà tù Mỹ qua những lá thư gửi cho Norman Mailer.*

5) Bài thơ chơi chữ tài tình như trong đoạn dưới đây, khi đọc lên ta mới cảm nhận được cái hay khi nhà thơ sử dụng "just" "is" và "justice":

We’ve learned that quiet isn’t always peace, 

and the norms and notions of what “just” is 

isn’t always justice.