Thursday, March 28, 2019

Khái Lược Văn Học Sử Mỹ -- Chương II Phần 2 Nguồn Gốc Dân Chủ và Những Nhà Văn Cách Mạng 1776-1820

                                                                      Nghị Luận Chính Trị
Thomas Paine (1737-1809)
Tình cảm mãnh liệt trong văn học thời Cách mạng được diễn đạt qua các tác phẩm nghị luận, thể loại văn chương phổ biến nhất về chính trị thời ấy.  Hơn 2000 nghị luận được xuất bản trong thời kỳ Cách mạng.  Các tác phẩm này làm người Mỹ yêu nước rất phấn khởi, đồng thời cũng làm những kẻ trung thành với vua Anh phải khiếp sợ.  Chúng thế chỗ các vở kịch, vì chúng thường được đọc lớn trước nơi công cộng nhằm kích động người nghe.  Trong các trại lính, lính Mỹ cũng đọc cho nhau nghe các quyển nghị luận ấy, trong khi quân đội trung thành với hoàng gia Anh lại ném các sách đó vào bếp lửa công cộng.
Quyển Khôn Ngoan của Thomas Paine bán ra trên 100.000 cuốn trong ba tháng đầu sau khi xuất bản.  Cho đến nay tác phẩm ấy vẫn kích động người đọc. Khi ông viết: “Sự nghiệp của nước Mỹ chủ yếu chính là sự nghiệp của toàn thể loài người,” Paine đã nói lên tính ngoại lệ đặc thù của Mỹ, một đặc điểm mà cho đến bây giờ vẫn còn rất đậm nét ở xứ này. Ông viết rằng, về căn bản, vì Mỹ là nước thử nghiệm thể chế dân chủ và là xứ mở cửa đón tất cả di dân từ các nước khác, vận mệnh nước Mỹ cho ta biết trước vận mệnh của cả loài người.
Trong một xứ dân chủ các bài viết chính trị cần phải rõ ràng để có sức lôi cuốn cử tri. Và để có những cử tri am hiểu vấn đề, các vị cha già sáng lập nền dân chủ Mỹ đã cổ vũ cho nền giáo dục toàn dân. Một dấu hiệu của đời sống văn học đơn giản nhưng sinh động là sự ra đời của nhiều tờ báo.  Ở Mỹ trong thời Cách mạng người ta đọc báo nhiều hơn bất cứ nơi nào trên thế giới. Di dân cũng đòi hỏi một văn phong đơn giản.  Rõ ràng sáng sủa rất cần đối với người di dân mới đến vì tiếng Anh có thể là ngôn ngữ thứ hai của họ.  Bản thảo gốc Tuyên Ngôn Độc Lập của Thomas Jefferson rất rõ ràng logic, nhưng những sửa đổi của hội đồng xét duyệt còn làm bản thảo ấy trở nên đơn giản hơn nữa.  Các bài viết của những người chủ trương thành lập Liên bang (gọi là The Federalist Papers*), được viết nhằm vận động dân chúng ủng hộ Hiến pháp Mỹ, cũng lập luận rất sáng sủa mạch lạc, rất phù hợp cho các cuộc thảo luận bàn bạc của người dân ở một quốc gia dân chủ.
 -----

* The Federalist Papers ( lúc đầu có tựa là The Federalist) là tập hợp 85 bài báo và nghị luận do Alexander Hamilton, James Madison, John Jay viết dưới bút danh “Publius” nhằm vận động cử tri ủng hộ để thông qua Hiến pháp Mỹ, được xuất bản năm 1788.  Alexander Hamilton viết phần lớn các bài này. Tựa sách The Federalist Papers xuất hiện vào thế kỷ 20.

                   Trường Phái Tân Cổ Điển: Trường Ca, Nhại Trường Ca, và Văn Châm Biếm
Tiếc thay, văn học không phải chỉ gồm những bài viết đơn giản và trực tiếp như các bài văn chính trị.  Khi cố gắng làm thơ, phần lớn các tác giả có học hay rơi vào cái bẫy của chủ nghĩa tân cổ điển cầu kỳ phức tạp.  Riêng trường ca, lại có sức hấp dẫn đáng gờm.  Những nhà văn yêu nước Mỹ cảm thấy chắc chắn rằng cuộc Cách mạng Mỹ vĩ đại tất yếu phải được diễn đạt bằng trường ca, một thể loại truyện thơ dài, đầy kịch tính, với ngôn ngữ tao nhã, ca ngợi những chiến công của một vị anh hùng như huyền thoại.
Nhiều tác giả đã cố gắng nhưng không thành công.  Timothy Dwight (1752-1817), một người trong nhóm các nhà thơ Hartford Wits, là một thí dụ.  Dwight, về sau trở thành hiệu trưởng đại học Yale, viết trường ca Cuộc Chinh Phuc Canaan (1785), dựa trên câu chuyện trong Kinh Thánh nói về cuộc chiến đấu của Joshua để được vào miền Đất Hứa.  Dwight đã đặt George Washinton, Tổng tư lệnh quân đội Mỹ và sau trở thành tổng thống đầu tiên của Mỹ, trong vai nhân vật Joshua, và đã mượn thể thơ lưỡng cú* mà Alexander Pope đã từng dùng để dịch trường ca của Homer.  Trường ca của Dwight đầy tham vọng nhưng lại không có sức lôi cuốn.  Các nhà phê bình Anh bài bác trường ca của ông không nương tay; ngay cả bạn của Dwight la John Trumbull (1750-1831) cũng không hào hứng về tác phẩm ấy.  Có quá nhiều cảnh sấm chớp thịnh nộ trong các màn đánh nhau đến nỗi Trumbull đề nghị anh hùng ca đó nên được cung cấp cho những cây tầm sét.
Không có gì đáng ngạc nhiên khi thơ ca châm biếm lại có đất dụng võ thịnh hành hơn loại thơ nghiêm túc. Thể loại chế nhạo trường ca khuyến khích các nhà thơ Mỹ dùng cách nói tự nhiên, và không dẫn dụ họ rơi vào vũng lầy yêu nước kiểu lộ liễu tình cảm thái quá, và cách dùng tĩnh từ đầy thi vị rập theo quy ước nhưng lại vô hồn, xuất ph́át từ thi sĩ Hy lap Homer và thi si La mã Virgil như các nhà thơ Anh đã làm.
Trong các tác phẩm nhại trường ca như M’Fingal  (1776-1782) của Trumbull, những xúc cảm được điều chỉnh vừa phải và cách diễn đạt quy ước là những vũ khí được dùng để châm biếm hiệu quả.  Chính cách nói ồn ào hùng hổ thởi Cách mạng cũng bị chế nhạo.  Dựa theo tác phẩm  Hudibras của nhà thơ Anh Samuel Buttler, tác phẩm nhại trường ca này nhạo báng nhân vật theo đảng Bảo thủ Anh tên là M’Fingal.  Tác phẩm xúc tích, cô đọng, như khi tác giả ghi nhận việc kẻ tội phạm sắp bị treo cổ:

Không một ai từng cảm biết dây thòng lọng bị kéo
Lại có ý nghĩ tốt về luật pháp 
  
M’Fingal có đến 30 ấn bản, được in lại trong vòng ½ thế kỷ, và được nhiều người yêu thích ngay ở Anh lẫn Mỹ.  Thể loại châm biếm được độc giả thời Cách mạng yêu thích một phần vì nó nói lên những lời khen và phê bình mang tính xã hội; các chủ đề chính trị và các vấn đề xã hội là những đề tài chính thời ấy.  Vở hài kịch đầu tiên của Mỹ được biểu diễn, vở “Sự Tương Phản” (ra đời năm 1787) của Royall Taylor (1757-1826) đã cho thấy sự tương phản một cách hài hước giữa một viên sĩ quan Mỹ, trung tá Manly, với Dimple, người bắt chước lề thói của Anh.  Tất nhiên, nhân vật Dimple được xây dựng nhằm tạo nét hài hước.  Vở kịch giới thiệu nhân vật Yankee* đầu tiên của Mỹ tên là Jonathan.
Một tác pẩam châm biếm khác, quyển tiểu thuyết Modern Chivalry do Hugh Henry Brackenridge xuất bản từng đợt từ năm 1792 đến năm 1815, chỉ trích một cách đậm nét những điều quá lố lăng của thời đại bấy giờ.  Brackenridge (1748-1816) là một di dân người Tô cách lan lớn lên tại miền biên địa nước Mỹ, viết quyển tiểu thuyết dài và phong phú này dựa trên truyện Don Quixote, qua đó ông mô tả cuộc hành trình xui xẻo của đại úy Farrago và người hầu ngu ngốc, tàn bạo nhưng lại thu hút lòng người tên là Teague O’Regan.
                                                Các Nhà Thơ Thời Kỳ Cách Mạng Mỹ
Philip Freneau (1752-1832)
Nhà thơ Philip Freneau là người đã biết phối hợp trong thơ của ông những nét gợi cảm từ chủ nghĩa lãng mạn Âu châu, và đã thoát ra khỏi kiểu bắt chước và tính chung chung mơ hồ của nhóm thơ Hartford Wits.  Điểm chủ yếu giúp nhà thơ thành công và cũng làm ông thất bại là tinh thần dân chủ nồng nhiệt của ông cộng với tính thiếu uyển chuyển, linh động.
Nhóm Hartford Wits, chắc chắn đều gồm những nhà yêu nước, đã phản ảnh khuynh hướng bảo thủ văn hóa nói chung của tầng lớp có học thức. Freneau đã đi ngược lại những nhà thơ thủ cựu khư khư  giữ lấy thái độ của Đảng Tory bảo thủ bên Anh, ông than phiền “các tác phẩm của nhóm quý tộc chỉ nói lý thuyết, ca tụng nền quân chủ và những bổng lộc hữu danh vô thực ở Hartford.”  Mặc dù Freneau cũng đượoc học hành rất tốt, và quen thuộc với các tác phẩm cổ điển như các nhà thơ nhóm Hartford, ông lại ủng hộ sự nghiệp đấu tranh cho tự do và dân chủ.
Xuất thân từ gia đình người Huguenot** Freneau tham chiến trong cuộc chiến tranh Cách mạng.  Năm 1780 ông bị bắt và bị nhốt trên hai chiếc tàu Anh, ông suýt chết nhưng nhờ gia đình tìm cách can thiệp để ông được thả.  Bài thơ “Chiếc Tàu Ngục Tù” của ông là lời tố cáo cay đắng về sự tàn bạo của người Anh, những người muốn nhuộm máu toàn thế giới. Bài thơ này và những sáng tác cách mạng khác, kể cả “Eutaw Springs,”*** “Tự do ở Mỹ,” “Một Thỉnh Nguyện Chính Trị,” “Tham Vấn Nửa Đêm,” “Độc Thoại của Vua Goerge Đệ Tam” đã làm ông nổi tiếng là “nhà thơ của Cách mạng Mỹ.”
Freneau còn là chủ bút cho nhiều tạp chí, và ông luôn để hết tâm huyết vào sự nghiệp dân chủ.  Khi Thomas Jefferson giúp ông ra tờ báo quân đội, chống lại phe Liên Hiêp̣ Dân Tộc năm 1791, Freneau trở thành chủ bút tờ nhật báo đấu tranh mạnh mẽ đầu tiên ở Mỹ, và là nhà văn di trước William Cullen Bryant, William Lloyd Garrison, và H.L. Mencken.
Là nhà thơ kiêm chủ bút, Freneau bám sát lý tưởng dân ch̉u của mình.  Những bài thơ được đọc giả yêu chuộng của ông, đăng trong nhật báo dành cho người có trình dộ trung bình, thường xuyên ca ngợi các chủ đề về nước Mỹ.  "Giá Trị Của Thuốc Lá" nói về cây thuốc lá bản địa và là chỗ dựa chính của nền kinh tế ở các thuộc địa miền nam; trong khi "Bình Rượu Rum"ca ngợi thức uống ở vùng West Indies, món hàng được trao đổi buôn bán chính ở Mỹ trong thời kỳ đầu, và là hàng xuất cảng chủ yếu của Tân Thế Giới.  Người thường dân ở Mỹ được mô tả sống động trong "Người Lái Thuyền ở Hatteras," cũng như qua các bài thơ nói về các lang băm và những người truyền giáo ồn ào nhưng không có thực chất.
Freneau có văn phong tự nhiên và bình dân, phù hợp với tinh thần dân chủ chân chính. Nhưng ông có thể đạt đến mức sáng tác những vần thơ kiểu tân cổ điển rất tao nhã, bay bổng với các tác phẩm thường được đăng trong các hợp tuyển như bài thơ “Hoa lài dại” (1786), gợi lên hương thơm ngọt ngào của loài hoa bản địa.  Mãi đến những năm 1820, khi phong trào Phục hưng Mỹ bắt đầu, nền thi ca Mỹ mới vượt qua được tầm cao mà Freneau đã đạt được trước đó 40 năm.
Những năm đầu đã có các tác phẩm đặt nền móng cho nhiều thành tựu văn học sau này. Tinh thần dân tộc đã thúc đẩy sự ra đời của nhiều tác phẩm, dẫn đến việc biết trân trọng những gì thuộc nước Mỹ.
Noah Webster (1758-1843) nghĩ ra việc soạn Từ điển Mỹ, và ông là một người đọc sách và dạy đánh vần quan trọng cho các trường học.  Quyển Sách Học Vần của ông được bán trên 100 triệu ấn bản trong nhiều năm.  Từ Điển Mỹ của ông được cập nhật hóa và vẫn còn được dùng làm chuẩn mực mãi cho đến nay.  Quyển Địa Lý Nước Mỹ của Jedidiah Morse, một quyển sách tham khảo mang tính đột phá khuyến khích việc mở mang kiến thức về xứ Mỹ rộng lớn và ngày càng nới rộng thêm. Trong thời kỳ này có một số sách khá thú vị, tuy không phải tác phẩm văn chương, đó là các quyển nhật ký của những người dân sống ở vùng biên địa và nhật ký của các nhà thám hiểm như Meriwether Lewis (1774-1809), v Zebulon Pike (1779-1813).  Họ đã tường trình cuộc thám hiểm lãnh thổ Louisiana, một vùng đất rộng lớn ở Bắc Mỹ mà Thomas Jefferson đã mua lại từ vua Napoleon vào năm 1803.
-----  
*Couplet: thể thơ có hai câu với tiết tấu giống nhau và vần với nhau, làm thành một đơn vị trong một bài thơ dài.
**Huguenot: người theo giáo phái Protestant ở Pháp vào thế kỷ 16-17.  Phần lớn theo học thuyết Calvin, họ bị người Ky tô giáo chính thống xử tội và nhiều người phải rời nước Pháp di dân sang Mỹ.
https://en.wikipedia.org/wiki/Huguenots
***
 Eutaw Springs: Trận chiến Eutaw Springs (8 tháng 9, 1781), xảy ra gần Charleston, South Carolina, là trận chiến cuối cùng mà hai tiểu bang North và South Carolina tham chiến trong cuộc Cách mạng Mỹ.  Cả quân đội Anh lẫn quân đội Mỹ đều tuyên bố mình thắng trận.

http://ufdc.ufl.edu/AA00011697/00001

Saturday, March 23, 2019

Tưởng Niệm Cố Giáo Sư Lê Văn Diệm (1923/25?-1999)

Nhân kỷ niệm 20 năm (25/3/1999-25/3/2019) ngày Giáo sư Lê Văn Diệm qua đời (27/9/1923? -- 25/3/1999), xin thành kính tri ân, và xin dâng nén hương tưởng niệm Giáo Sư, người đã hy sinh trọn đời mình cho sự nghiệp giáo dục nhiều thế hệ sinh viên Việt nam, và đã giới thiệu cho họ cái hay cái đẹp của ngôn ngữ và văn học Anh Mỹ. 
                                                                          ***
Giáo sư Lê Văn Diệm (1923?-1999) sinh trưởng tại Huế trong một gia đình trí thức Công giáo.  Giáo sư không có gia đình riêng.  Khi làm việc tại Sài gòn, giáo sư sống tại một căn hộ ở đường Nguyễn thị Minh Khai (trước 1975 là đường Hồng Thập Tự) Quận 1, thành phố Hồ Chí Minh, cùng hai người em gái cho đến khi qua đời.
Sau 1954, giáo sư là một trong những người miền Nam Việt nam đầu tiên được học bổng sang Mỹ du học.  Sau khi hoàn tất bằng M.A. về ngành American Studies tại University of Washington-Seattle năm 1956, giáo sư đến University of Minnesota để  học tiếp chương trình PhD ở Department of English.  Giáo sư trình luận án tiến sĩ vào tháng 7 năm 1960 với đề tài Puritan Idealism and the Transcendental Movement (Lý Tưởng Thanh Giáo và Phong Trào Siêu Nghiệm Luận).  Luận án dài 200 trang đánh máy một mặt, trong đó giáo sư dùng nhiều tài liệu gốc thế kỷ 17, 18 về  Puritanism (Thanh giáo) tại Anh và Mỹ thời còn là thuộc địa của Anh.  Luận án phân tích lý tưởng Thanh giáo từ gốc độ thần học và triết học Tây phương, và ảnh hưởng của Thanh giáo đối với phong trào Transcendentalism (Siêu Nghiệm Luận) của thế kỷ 19 tại Mỹ.  Luận án dành cả một chương đi sâu phân tích hai tác giả Transcendentalists lớn trong văn học Mỹ là Ralph Waldo Emerson và Nathaniel Hawthorne.  Trong phần phụ lục, giáo sư luận bàn thêm về triết học John Locke.
Sau khi hoàn tất việc học tại Mỹ, năm 1960 giáo sư trở về Việt nam phục vụ, và được bổ nhiệm vào chức vụ Khoa trưởng Văn khoa, Viện  Đại học Huế.  Khoảng năm 1963-1964, giáo sư về Sài gòn dạy tại Khoa Anh văn, Đại học Văn khoa một thời gian.  Sau đó giáo sư nhận chức vụ Khoa trưởng Văn khoa, Đại học Cần thơ, tại đây giáo sư vừa làm công tác quản trị vừa dạy học.  Năm 1969 giáo sư cùng phái đoàn Việt nam tham dự hội thảo seminar về giảng dạy tiếng Anh do SEAMEC Regional English Language Center tổ chức ở Singapore.  Tại  hội thảo giáo sư trình bày những nét đặc thù của việc dạy và học tiếng Anh ở Việt nam thời bấy giờ, và đề cập phương pháp dạy "immersion" (hội nhập) mà giáo sư đã cho áp dụng tại Đại học Cần thơ.  Giáo sư nhấn mạnh việc cần sử dụng tiếng Anh làm công cụ giao tiếp ("medium of instruction," "exclusively") trong môi trường dạy và học, việc mời giáo sư sử dụng tiếng Anh như tiếng mẹ đẻ từ các nước nói tiếng Anh đến Việt nam dạy, và việc tạo môi trường sinh hoạt phù hợp, cởi mở để giúp sinh viên Việt hòa nhập vào văn hóa Anh Mỹ, ngõ hầu học tiếng Anh tốt hơn.  Khi giáo sư  trở lại Văn khoa Sài gòn khoảng năm 1971-1973, phương pháp này được tiếp tục áp dụng, cả sau tháng 4, 1975, tuy những năm 1975-1993 Văn khoa không còn các giáo sư đến từ các  nước nói tiếng Anh nữa.
Sau tháng 4 năm 1975, giáo sư  là một trong những người hiếm hoi của khoa Anh văn ở lại Nam Việt nam để giảng dạy cho các lớp học chính quy tại trường Văn khoa (năm 1976 Văn khoa sáp nhập với Đại học Khoa học và đổi tên thành Đại hoc Tổng hợp; năm 1996 trường lại tách ra với tên Đại hoc Khoa học xã hội nhân văn).  Cũng như nhiều đồng nghiệp khác, giáo sư đã có mặt trong buổi họp với quân đội tiếp quản trường ngày 1 tháng 5 1975, và dự các buổi học chính trị thời ấy.  Sau đó, giáo sư tiếp tục dạy Composition, American Literature (short fiction, prose và poetry), và bảo trợ về các đề tài văn học Mỹ cho các sinh viên được chọn ở lại thêm một năm để viết luận văn tốt nghiệp sau bốn năm cử nhân (tức sinh viên hệ 5 năm).  Khoảng 1988-1989 giáo sư về hưu, nhưng vẫn vào trường cố vấn các thế hệ giảng viên trẻ hơn trong việc điều hành, quản trị khoa và giảng dạy chuyên môn khi họ cần tham khảo ý kiến.  

Giáo sư làm việc nghiêm túc và rất ít nói.  Trong những năm tháng khó khăn nhất của thời kỳ bao cấp, giáo sư luôn đi dạy đúng giờ, tận tụy chấm bài luận của các sinh viên rất kỹ.  Giáo sư không bao giờ nghỉ dạy, trừ khi bệnh nhiều.  Giáo sư có phong cách của một học giả chuyên nghiệp, không ồn ào, háo danh, chỉ tập trung vào công việc của mình, và thường giúp đỡ sinh viên nghèo có khó khăn trong cuộc sống mà giáo sư biết được.
Năm 1996 khi bang giao Việt Mỹ được tái lập,  giáo sư được mời sang Department of English, Boston University, Massachusetts đế nghiên cứu và để cập nhật hóa giáo trình dạy văn học văn minh Mỹ đã lỗi thời sau nhiều năm thiếu thông tin tài liệu.  Giáo sư lưu lại Boston University khoảng 9-10 tháng rồi về nước.  Những năm cuối đời, giáo sư dành thì  giờ hiệu đính và tìm cách xuất bản tài liệu giảng dạy của mình, nhưng chưa kịp thì  giáo sư lâm bệnh và qua đời tại thành phố Hồ Chí Minh.
Hay tin giáo sư mất, tạp chí Dòng Việt do các cựu giáo sư Văn Khoa ở  hải ngoại có đăng cáo phó chia buồn cùng tang quyến.  Theo lời kể của một số sinh viên trong nước, tang lễ của  giáo sư Lê Văn Diệm được cử hành tại một nhà thờ nhỏ trên đường Nguyễn Đình Chiểu, Quận 1, thành phố Hồ Chí Minh.  Vì không thông báo rộng rãi và cũng có thể vì giáo sư và tang quyến muốn được an tịnh, tang lễ rất lặng lẽ.  Một số cán bộ giảng dạy và sinh viên cho hay họ không nhận được tin buồn nên không biết để kịp đến tiễn giáo sư lần cuối .
Tài Liệu Tham Khảo
Lê Đình Cai.  "Những Kỷ Niệm Về Các Vị Khoa Trưởng Đại Học Văn Khoa Huế (1957-1975)." VietnamDaily.com. Số 7563. Ra ngày 07/05/2016. http://www.vietnamdaily.com/index.php?c=article&p=95925. Truy cập ngày 01/30/2019.
 
Lê Văn Diệm.  “Some Aspects of the Teaching of English in Vietnam.” Singapore, 1969.  https://files.eric.ed.gov/fulltext/ED031708.pdf
OCLC Number: 967589877.  Truy cập ngày 01/01/2019.
 
Lê Văn Diệm.  Puritan Idealism and the Transcendental Movement.  University of Minnesota.  Dissertation.  OCLC Number: 833433985.  Truy cập ngày 02/01/2019.

"Can tho University." Vietnam Bulletin.
https://www.vietnam.ttu.edu/star/images/232/2322014002.pdf. Truy cập ngày 01/15/2019.

"Cáo phó GS Lê Văn Diệm."  Dòng Việt - Đại  học Văn Khoa Saigon số 6, trang 72.   
Truy cập ngày 01/15/2019.
 

Trần Thanh Đạm.  “Tôi về Đại học Văn Khoa Sài Gòn những ngày mới giải phóng.” 01/12 /2017.
Truy cập ngày 02/10/2019. 





Monday, March 18, 2019

Khái Lược Văn Học Sử Mỹ -- Chương II Phần 1 Nguồn Gốc Dân Chủ và Những Nhà Văn Cách Mạng 1776-1820

Cuộc đấu tranh cách mạng quật cường của người Mỹ chống ḷai đế quốc Anh (1775-1783) là cuộc chiến tranh giải phóng đầu tiên trong lịch sử cận đại chống lại một cường quốc thực dân.  Thắng lợi giành được độc lập của Mỹ đối với nhiều người thời ấy là dấu hiệu của Chúa Trời cho thấy sự vĩ đại của nước Mỹ và dân Mỹ đã được Ngài định. Thắng lợi quân sự này đã thổi thêm luồng sinh khí làm tăng thêm niềm hy vọng của dân tộc về một nền văn chương mới vĩ đại của nước Mỹ.  Tuy vậy, ngoại trừ một vài bài luận chính trị nổi bật, ít có tác phẩm nào đáng ghi nhận trong suốt thời kỳ Cách mạng cũng như trong thời kỳ sau đó.
Sách từ Mỹ thường bị phê duyệt khắc khe tại Anh.  Người Mỹ đau khổ khi thấy mình bị lệ thuộc quá nhiều vào các mẫu mực văn chương của Anh.  Đi tìm một nền văn chương bản địa cho riêng mình đã trở thành nổi ám ảnh của dân tộ̣c Mỹ.  Năm 1816 chủ bút một tờ tạp chí Mỹ đã viết: "Lệ thuộc là tình trạng suy thoái chỉ khiến mình thêm xấu hổ, và lệ thuộc vào não trạng người nước ngoài về cái chúng ta có thể sáng tạo là cộng thêm vào tộ̣i lười biếng cái yếu kém của sự ngu đần."
Cách mạng văn hóa, khác với cách mạng quân sự, không thể áp đặt thành công lên một quốc gia, mà phải nảy nở từ mảnh đất của những người cùng nhau chia xẻ kinh nghiệm. Các cuộc cách mạng chính là lòng dân, chúng phát triển dần dần từ xúc cảm mới, và từ bao kinh nghiệm tích lũy được. Phải mất 50 năm với bao biến chuyển lịch sử ở Mỹ, một nền văn hóa độc lập bản địa mới thực sự hình thành, sản sinh ra thế hệ tác giả lớn đầu tiên của Mỹ: Washington Irving, James Fenimore Cooper, Raph Waldo Emerson, Henry David Thoreau, Herman Melville, Nathaniel Hawthorne, Edgar Allan Poe, Walt Whitman, và Emily Dickinson.  Tính độc lập của văn chương Mỹ bị chậm lại vì còn dính líu về danh tính với Anh quốc. vì nó mô phỏng quá nhiều vào khuôn mẫu văn chương Anh và văn học cổ điển Âu châu, và vì điều kiện kinh tế chính trị gây khó khăn cho việc xuất bản tác phẩm.

Những tác giả thời kỳ Cách mạng, dù họ thực sự yêu nước, đều viết vì họ tự giác thấy cần phải viết, và viết về tính nhạy cảm của người Mỹ không bao giờ là sở trường của họ.  Tác giả tại thuộc địa của  thế hệ Cách mạng Mỹ đều sinh ra tại Anh, lớn lên và trở thành công dân Anh.  Họ được đào tạo rèn luyện theo nếp suy nghĩ, cách ăn mặc và xử sự của người Anh.  Cha mẹ ông bà của họ cũng là người Anh hoặc người Âu châu, và bạn bè họ cũng vậy.  Thêm vào đó, nhận thức về kiểu mẫu văn chương ở Mỹ vẫn còn đi sau Anh.  Chính vì nhà văn Mỹ đi sau nhà văn Anh về mặt thời gian như thế mà họ buộc phải bắt chước Anh.  Năm mươi năm sau khi đã nổi tiếng ở Anh, những nhà văn tân cổ điển của Anh như Joseph Addison, Richard Steele, Jonathan Swift, Alexander Pope, Oliver Goldsmith, và Samuel Johnson, vẫn còn được nhiều nhà văn Mỹ mô phỏng theo một cách nhiệt tình.

Thêm vào đó, những thách thức thú vị của việc xây dựng một đất nước mới đã thu hút nhiều nhân tài và người có học vào các lãnh vực chính trị, luật pháp và ngoại giao. Theo đuổi những ngành này đem lại danh dự, vinh quang, và ổn định về tài chính; trong khi đó, nghề viết văn chẳng hái ra tiền. Những nhà văn Mỹ đầu tiên, vào lúc ấy đã tách ra khỏi nước Anh, không hề có một nhà xuất bản hiện đại nào giúp họ hữu hiệu, họ không có độc giả, và cũng không được bảo vệ đầy đủ trước pháp luật. Sự giúp đỡ của chủ bút về việc duyệt bản thảo, phân phối và quảng bá tác phẩm còn rất sơ sài. 
Mãi đến năm 1825 phần lớn các nhà văn Mỹ phải trả tiền nhà in để họ xuất bản tác phẩm của mình.  Rõ ràng là chỉ những người có thì giờ rảnh rỗi và sống độc lập giàu có như Washingotn Irving hay nhóm  Knickerbocker * ở New York, nhóm các nhà thơ ở Connecticut (thường được gọi là nhóm Hartford Wits**) mới có thể có thì giờ và tiền bạc để phát huy sở thích viết văn của mình.  Benjamin Franklin là một trường hợp ngoại lệ, mặc dù xuất thân nhà nghèo, nhưng vì ông làm trong ngành in nên có thể in tác phẩm của mình.
Charles Brockden Brown là một thí dụ điển hình.  Là tác giả viết nhiều tiểu thuyết lãng mạn theo kiểu Gothic, ông là nhà văn Mỹ đầu tiên kiếm sống bằng ngòi bút.  Nhưng rồi ông lại qua đời sớm trong nghèo đói.
Thiếu độc giả lại là một vấn đề khác nữa. Số độc giả có học ít ỏi tại Mỹ lại mong được đọc các tác giả nổi tiếng ở Âu châu, một phần xuất phát từ lòng kính trọng thái quá vốn có của người di dân ở vùng thuộc địa đối với những người từng cai trị họ trước đây.  Việc người Mỹ yêu thích các tác phẩm ở Anh hơn không phải không có lý do, vì phải nhìn nhận các tác phẩm ra đời ở Mỹ lúc ấy kém hơn, nhưng chính điều này đã làm tình hình xấu thêm, vì nó đã lấy mất độc giả của các nhà văn Mỹ. Chỉ có ngành báo chí là đem lại thu nhập cho người viết, nhưng quần chúng độc giả lại thích thơ ca nhẹ nhàng, không quá khó hiểu, và những bài nghị luận ngắn viết về một đề tài nào đó, mà không phải những tác phẩm dài với chủ đề mới lạ.
Không có luật về bản quyền hợp lý đầy đủ có lẽ là lý do rõ ràng nhất khiến văn học bị trì trệ.  Các nhà in sách ở Mỹ in lại những sách bán chạy nhất ở Anh.  Cũng dễ hiểu khi họ không muốn trả tiền cho các nhà văn Mỹ nếu tác phẩm không được ai biết đến. Việc in lậu không giấy phép các sách từ nước ngoài lúc đầu được xem như một cách phục vụ thuộc đ̣ia ở Mỹ, và nó đem lại thu nhập cho những người in sách như Ben Franklin, người đã in lại các sách kinh điển và các tác phẩm lớn của Âu châu để giáo dục công chúng My.
----
*        *The Knockerbocker writers: nhóm các nhà văn thường cộng tác với tạp chí văn học The Knickerbocker ( tức  The New-York Monthly Magazine) do Charles Fenno Hoffman sáng lập năm 1833 và tiếp tục xuất bản mãi đến năm 1865.  Nhóm gồm William Cullen Bryan, Henry Wadsworth Longfellow, Oliver Wendell Holmes, James Russell Lowell,  và nhiều nhà văn khác nữa.   https://en.wikipedia.org/wiki/The_Knickerbocke
     **The Hartford Wits (tức The Connecticut Wits) gồm các nhà văn trẻ vùng Connecticut, nguyên gốc  hình thành từ nhóm văn tại Yale University vào đầu thế kỷ 18, gồm David Humphreys, Joel
Barlow, Lemuel Hopkins, và John Trumbull.
Các nhà in khác bắt đầu theo cách Ben Franklin khởi xướng.  Matthew Carey, một nhà xuất bản Mỹ có tầm cỡ, đã thuê người ở London, làm dọ thám văn học, để gửi cho ông các trang sách được viết ra nhưng chưa đóng thành sách, kể cả bản thảo, qua ngõ các chuyến tàu đi nhanh, chỉ mất một tháng đã đến Mỹ.  Người của Carey sẽ đi thuyền ra đón các tàu ấy để xúc tiến việc in các sách bị lấy cắp bằng cách cho thợ sắp chữ chia sách thành nhiều phần,và họ thay phiên nhau sắp chữ ngày đêm để lên khuôn.  Một quyển sách bị lấy cắp như thế có thể được in lại trong vòng một ngày, và đem bày bán trên kệ ở Mỹ cũng nhanh như ở Anh vậy. 
Vì các ấn bản được phép nhập cảng vào Mỹ giá đắt hơn và không thể cạnh tranh với những sách bị lấy cắp để in lậu, tình trạng vi phạm bản quyền này đã làm phương hại nhiều đối với các nhà văn nước ngoài như Sir Walter Scott hay Charles Dickens, cũng như hại cả các tác giả Mỹ.  Nhưng ít ra các tác giả ngoại quốc còn nhận được thù lao từ nhà xuất bản gốc và họ cũng đã nổi danh rồi.  Còn các nhà văn Mỹ như James Fenimore Cooper chẳng những không được hưởng thù lao xứng đáng mà còn chịu đựng cảnh thấy tác phẩm của mình bị đánh cắp sờ sờ trước mắt.  Tác phẩm thành công đầu tiên của Cooper, Kẻ Dọ Thám (1821) đã bị các nhà in khác nhau đánh cắp chỉ trong vòng một tháng sau khi tác phẩm ra đời.
Mỉa mai thay, luật bản quyền ban ra năm 1790, lại cho phép in lậu sách, với mục đích phục vụ dân tộc.  Đạo luật ấy do Noah Webster soạn thảo.  Ông là nhà từ vựng học nổi danh về sau đã soạn ra quyển tự điển Mỹ Webster.  Đạo luật này chỉ bảo vệ tác phẩm do nhà văn Mỹ viết, và cho rằng các nhà văn nước ngoài phải tự lo lấy chuyện bản quyền của họ.
Mặc dù đạo luật ấy tồi tệ, không một nhà xuất bản nào vào thời ấy muốn sửa đổi nó, vì nó có lợi cho họ.  In sách lậu khiến các tác giả Mỹ thế hệ đầu của thời kỳ Cách mạng sống dở chết dở; và không có gì đáng ngạc nhiên khi thế hệ nhà văn tiếp theo đó càng có ít tac pham giá trị.  Năm 1815, năm cao điểm của việc in sách lậu, cũng là năm tệ hại nhất cho nền văn học Mỹ.  Dù vặy, trong 50 năm đầu tiên từ khi nước Mỹ được thành lập, nguồn sách, kể cả các sách kinh điển, từ nước ngoài vào Mỹ, được in lậu vừa rẻ vừa nhiều đã góp phần vào việc giáo dục người dân Mỹ, trong đó có những nhà văn lớn đầu tiên, tức những nhà văn bắt đầu xuất hiện vào khoảng năm 1825.

Phong Trào Khai Sáng của Mỹ
Phong trào Khai sáng của Mỹ vào thế kỷ 18 là một phong trào nhấn mạnh nhiều về lý trí hơn vào niềm tin theo truyền thống, nhấn mạnh việc tìm hiểu khoa học hơn việc chỉ vâng theo giáo điều, và coi trọng chính quyền dân cử hơn chế độ quân chủ.  Các nhà tư tưởng và nhà văn thuộc phong trào này một lòng phục vụ lý tưởng công bằng, tự do và bình đẳng, xem đó là những quyền tự nhiên của con người.
Benjamin Franklin (1706-1790)
Benjamin Franklin, người mà triết gia Tô cách lan David Hume gọi là “nhà văn hóa vĩ đại đầu tiên của Mỹ,” là hiện thân cho lý tưởng Khai sáng lý tính của loài người.  Thực tế nhưng lý tưởng, hăng say làm việc và thành công vô vàn, Franklin đã ghi lại cuộc đời thơ ấu của mình trong quyển Tự Truyện nổi tiếng.  Là nhà văn, thợ in, nhà xuất bản, khoa học gia, nhà hoạt động từ thiện và nhà ngoại giao, ông là người nổi tiếng nhất và được kính trọng nhất vào thời ấy.  Ông là người tự lập thân vĩ đại đầu tiên của Mỹ, là người nghèo có tư tưởng dân chủ, sinh vào thời kỳ phong kiến quý tộc thống trị, một thời kỳ mà tấm gương sáng của ông đã giúp khai phóng.
Franklin là người di dân thuộc thế hệ thứ hai. Cha ông là thợ làm nến ̣(đèn cầy), theo giáo phái Puritan từ Anh di cư sang Mỹ đến Boston, Massachusettsnăm năm 1683.  Cuộc đời của Franklin đã minh họa ảnh hưởng về nhiều mặt của phong trào Khai sáng  đối với một người có năng khiếu đặc biệt.  Tự học và đọc nhiều sách của John Locke*, Lord Shaftesbury**, Joseph Addison***, và những nhà Khai sáng khác, Franklin đã học được nơi họ cách suy luận, áp dụng lý trí vào đời sống, và thoát ra khỏi khuôn khổ truyền thống, nhất là truyền thống Puritan cổ xưa, khi nó đe dọa bóp nghẹt tư tưởng của ông.  Thời còn trẻ, Franklin tự học ngôn ngữ, đọc nhiều và tập viết bài cho công chúng.  Khi ông từ Boston dọn đến Philadelphia, tiểu bang Pennsylvania, Franklin đã có trình độ học vấn như trình độ một người thuộc tầng lớp thượng lưu. Ông cũng có khả năng làm việc cần cù, kỹ lưỡng, thường tự kiểm điểm, và khát khao cải thiện bản thân giống những người Puritan.  Nhừ những đức tính ấy ông dần dần trở nên giàu có, được mọi người kính trọng,với nhiều vinh dự nữa.  Không bao giờ ích kỷ, Franklin cố gắng giúp những người thường dân khác cũng được thành công như mình bằng cách chia xẻ tư tưởng suy nghĩ của ông với họ và khởi xướng ra loại hình văn học đặc thù Mỹ là loại sách “học làm người.”

Quyển Sổ tay niên giám của chàng Richard nghèo (Poor Richard’s Almanack) của Franklin ra đời năm 1732 và được xuất bản nhiều năm sau đó làm ông trở nên giàu có và nổi tiếng khắp các miền thuộc địa.  Quyển sách được in ra hàng năm này gồm những lời khuyến khích, khuyên bảo và thông tin hữu dụng, với những nhân vật dí dỏm vui nhộn như Đức Cha Abraham cao niên và chàng Richard nghèo, đã sách tấn độc giả qua những câu nói xúc tích, đáng ghi nhớ. Trong chương tựa đề “Con đường làm giàu,” bản gốc trong quyển niên giám, Cha Anbraham, "một cụ già sạch sẽ giản dị, với mái tóc bạc phơ,"  theo lời chàng Richard nghèo, đã nói: “Một lời đối với người khôn cũng đủ.” “Thượng Đế giúp kẻ tự giúp mình.” “Đi ngủ sớm, dậy sớm giúp con người được khỏe mạnh, giàu có và khôn ngoan.”  Chàng Richard nghèo là một nhà tâm lý. ̣(“Cần cù giúp bạn trả nợ, còn Nản chí chỉ làm tăng thêm nợ.”), và chàng luôn khuyên người ta nên cần cù làm việc (“Siêng năng là mẹ của may mắn”). 
Ông khuyên chúng ta không nên lười biếng vì “Một hôm nay đáng giá hai ngày mai.”  Đôi khi ông sáng tạo ra những giai thoại để minh họa cho quan điểm của ông.  “ Sơ suất nhỏ có thể là mầm mống dẫn đến hành vi xấu lớn....Vì thiếu một cây đinh mà móng ngựa bị sút. Vì thiếu một móng ngựa mà con ngựa đi lệch đường. Vì thiếu một con ngựa mà người kỵ sĩ bị lạc đoàn, bị kẻ thù khống chế và giết chết. Tất cả qui lại chỉ vì thiếu mất một cái đinh móng cho con ngựa.”  Franklin quả có tài rút ra bài học đạo đức để dạy chúng ta.  “Duy trì một tật xấu có thể dung dưỡng hai đứa trẻ.” “Vết thủng nhỏ có thể làm đắm chiếc tàu lớn.”  “Kẻ ngu bày tiệc, người khôn ăn tiệc.”
Quyển Tự Truyện của Franklin về một mặt nào đó thuộc loại sách học làm người.  Ông viết quyển sách ấy để khuyên con trai, và sách chỉ nói về thời ông còn trẻ.  Đoạn sách nổi tiếng nhất mô tả kế hoạch khoa học ông vạch ra để sửa mình tốt hơn.  Franklin nêu ra 13 đức tính: tiết độ, im lặng, trật tự, cương quyết, cần kiệm, siêng năng, chân thật, công bằng, trung dung (vừa phải), sạch sẽ, trầm tĩnh, trung chuyên tiết hạnh, và nhún nhường khiêm tốn.  Ông kèm thêm mỗi đức tính một câu châm ngôn ngắn, thí dụ, câu châm ngôn cho đức tính tiết độ là “Ăn đừng để đến mức thấy ngán, Uống rượu đừng để đến độ say ngất ngưởng.”  Là một nhà khoa học thực tế, ông dùng chính bản thân ông làm thí nghiệm về lý tưởng toàn thiện của con người.
Để rèn luyện những thói quen tốt, Franklin tạo ra một quyển sổ tay có ghi ngày tháng.  Mỗi tuần ông huân tập một đức tính; ngày nào không làm tốt, ông sẽ ghi vào đó một chấm đen.  Phương cách của ông sau này trở thành thuyết hành vi trong ngành tâm lý học, còn phương pháp ký hiệu có hệ thống do ông đề ra đã tiên liệu cho phương pháp sửa đổ hành vi ngày nay.  Cách tự sửa bản thân đã kết hợp hài hòa lòng tin vào tính toàn thiện của con người theo tinh thần Khai sáng với thói quen tự kiểm tra đạo đức bản thân của giáo phái Puritan.
Ngay từ khi còn trẻ Franklin đã thấy viết ăn có thể giúp tư tưởng của ông tiến xa, vì thế ông nỗ lực hoàn thiện văn phong linh động uyển chuyển của mình, không phải chỉ để viết văn hay hơn, mà cốt dùng văn làm công cụ truyền đạt tư tưởng. Ông khuyên chúng ta “Viết cho người có học.  Nói cho người ít học.” Là một nhà khoa học, ông đã theo lời khuyên của Hội Khoa học Hoàng Gia vào năm 1667 về việc nên “dùng cách nói tự nhiên, gần gũi, không màu mè, với cách diễn đạt tích cực, ý nghĩa rõ ràng, dung dị của người bản xứ, để trình bày mọi thứ một cách hết sức đơn giản như toán học.”
Mặc dù giàu có và đầy danh vọng, Franklin không bao giờ đánh mất lòng nhạy cảm về tinh thần dân chủ của mình.  Ông là một nhân vật quan trọng tại Hội nghị soạn thảo Hiến pháp Mỹ năm 1787.  Những ăm cuối đời ông là chủ tịch hội chống lại chế độ nô lệ da đen.  Một trong những nỗ lực cuối đời của Franklin là cổ xúy việc nâng cao nền giáo dục công lập cho mọi người
----
*John Locke (1632-1704) triết gia và bác sĩ người Anh, và là một trong những nhà Khai sáng có ảnh hưởng lớn nhất.
https://en.wikipedia.org/wiki/John_Locke
**Anthony Ashley Cooper (1621-1683), First Earl of Shaftesbury, sau trở thành Lord Ashley (1661-1672), là nhà chính trị lỗi lạc sáng lập ra Đảng Whig,  dưới triều vua Charles II, và là người đỡ đầu cho John Locke.
https://en.wikipedia.org/wiki/Anthony_Ashley_Cooper,_1st_Earl_of_Shaftesbury
*** Joseph Addison (1672-1719) nhà viết nghị luận, nhà thơ, nhà viết kịch và chính trị gia, người cùng với Richard  Steele (1672-1729) sáng lập ra tạp chí The Spectator.
https://en.wikipedia.org/wiki/Joseph_Addison

Hector St. John de Crevecoeur (1735-1813)
Một nhân vật khác của phong trào Khai sáng là Hector St. John De Crevecoeur.  Tác phẩm Lá thư của một chủ nông trại Mỹ (1782) của ông đã đem đến cho người Âu châu một lý tưởng tươi sáng về các cơ hội thanh bình, giàu có và đầy tự hào ở Mỹ.  Không phải là người Mỹ cũng không phải là chủ nông trại mà là một nhà quý tộc người Pháp có một điền trang ở ngoại ô thành phố New York trước Cách mạng, Crevecoeur đã nhiệt tình ca ngợi các thuộc địa Mỹ châu đã cần cù lao động, cởi mở phóng khoáng và ngày càng trở nên thịnh vượng qua 12 lá thư mô tả đất Mỹ như một thiên đàng sống nhờ nông nghiệp.  Cái nhìn này của ông đã gợi hứng cho Thomas Jefferson, Ralph Waldo Emerson, và nhiều nhà văn nữa mãi cho dến ngày nay.
Crevecoeur là người Âu châu đầu tiên có cái nhìn thấu đáo về Mỹ và về người Mỹ mới.  Ông là người đầu têen dùng hình ảnh “nồi thập cẩm” (melting pot) để ám chỉ nước Mỹ.  Trong một đoạn văn nổi tiếng ông đã đặt câu hỏi:
Vậy thì con người mới này, tức người Mỹ, là ai?  Anh ta hoặc là người Âu châu, hoặc là con cháu họ, mang dòng máu hợp chủng kỳ lạ mà bạn không thể tìm thấy ở một xứ nào khác.  Tôi có thể đơn cử cho bạn thấy một gia đình trong đó người ông là người Anh, có vợ người Hòa lan, họ có đứa con trai lấy vợ Pháp, sanh ra bốn người con lấy bốn bà vợ đến từ những quốc gia khác nhau.  Ở xứ này người từ tứ xứ pha trộn với nhau làm thành một giống dân mới mà bầng lao động và sự giàu có của mình, họ sẽ làm thay đổi cả thế giới.
                                                                



Nguồn:
http://ufdc.ufl.edu/AA00011697/00001