Monday, March 18, 2019

Khái Lược Văn Học Sử Mỹ -- Chương II Phần 1 Nguồn Gốc Dân Chủ và Những Nhà Văn Cách Mạng 1776-1820

Cuộc đấu tranh cách mạng quật cường của người Mỹ chống ḷai đế quốc Anh (1775-1783) là cuộc chiến tranh giải phóng đầu tiên trong lịch sử cận đại chống lại một cường quốc thực dân.  Thắng lợi giành được độc lập của Mỹ đối với nhiều người thời ấy là dấu hiệu của Chúa Trời cho thấy sự vĩ đại của nước Mỹ và dân Mỹ đã được Ngài định. Thắng lợi quân sự này đã thổi thêm luồng sinh khí làm tăng thêm niềm hy vọng của dân tộc về một nền văn chương mới vĩ đại của nước Mỹ.  Tuy vậy, ngoại trừ một vài bài luận chính trị nổi bật, ít có tác phẩm nào đáng ghi nhận trong suốt thời kỳ Cách mạng cũng như trong thời kỳ sau đó.
Sách từ Mỹ thường bị phê duyệt khắc khe tại Anh.  Người Mỹ đau khổ khi thấy mình bị lệ thuộc quá nhiều vào các mẫu mực văn chương của Anh.  Đi tìm một nền văn chương bản địa cho riêng mình đã trở thành nổi ám ảnh của dân tộ̣c Mỹ.  Năm 1816 chủ bút một tờ tạp chí Mỹ đã viết: "Lệ thuộc là tình trạng suy thoái chỉ khiến mình thêm xấu hổ, và lệ thuộc vào não trạng người nước ngoài về cái chúng ta có thể sáng tạo là cộng thêm vào tộ̣i lười biếng cái yếu kém của sự ngu đần."
Cách mạng văn hóa, khác với cách mạng quân sự, không thể áp đặt thành công lên một quốc gia, mà phải nảy nở từ mảnh đất của những người cùng nhau chia xẻ kinh nghiệm. Các cuộc cách mạng chính là lòng dân, chúng phát triển dần dần từ xúc cảm mới, và từ bao kinh nghiệm tích lũy được. Phải mất 50 năm với bao biến chuyển lịch sử ở Mỹ, một nền văn hóa độc lập bản địa mới thực sự hình thành, sản sinh ra thế hệ tác giả lớn đầu tiên của Mỹ: Washington Irving, James Fenimore Cooper, Raph Waldo Emerson, Henry David Thoreau, Herman Melville, Nathaniel Hawthorne, Edgar Allan Poe, Walt Whitman, và Emily Dickinson.  Tính độc lập của văn chương Mỹ bị chậm lại vì còn dính líu về danh tính với Anh quốc. vì nó mô phỏng quá nhiều vào khuôn mẫu văn chương Anh và văn học cổ điển Âu châu, và vì điều kiện kinh tế chính trị gây khó khăn cho việc xuất bản tác phẩm.

Những tác giả thời kỳ Cách mạng, dù họ thực sự yêu nước, đều viết vì họ tự giác thấy cần phải viết, và viết về tính nhạy cảm của người Mỹ không bao giờ là sở trường của họ.  Tác giả tại thuộc địa của  thế hệ Cách mạng Mỹ đều sinh ra tại Anh, lớn lên và trở thành công dân Anh.  Họ được đào tạo rèn luyện theo nếp suy nghĩ, cách ăn mặc và xử sự của người Anh.  Cha mẹ ông bà của họ cũng là người Anh hoặc người Âu châu, và bạn bè họ cũng vậy.  Thêm vào đó, nhận thức về kiểu mẫu văn chương ở Mỹ vẫn còn đi sau Anh.  Chính vì nhà văn Mỹ đi sau nhà văn Anh về mặt thời gian như thế mà họ buộc phải bắt chước Anh.  Năm mươi năm sau khi đã nổi tiếng ở Anh, những nhà văn tân cổ điển của Anh như Joseph Addison, Richard Steele, Jonathan Swift, Alexander Pope, Oliver Goldsmith, và Samuel Johnson, vẫn còn được nhiều nhà văn Mỹ mô phỏng theo một cách nhiệt tình.

Thêm vào đó, những thách thức thú vị của việc xây dựng một đất nước mới đã thu hút nhiều nhân tài và người có học vào các lãnh vực chính trị, luật pháp và ngoại giao. Theo đuổi những ngành này đem lại danh dự, vinh quang, và ổn định về tài chính; trong khi đó, nghề viết văn chẳng hái ra tiền. Những nhà văn Mỹ đầu tiên, vào lúc ấy đã tách ra khỏi nước Anh, không hề có một nhà xuất bản hiện đại nào giúp họ hữu hiệu, họ không có độc giả, và cũng không được bảo vệ đầy đủ trước pháp luật. Sự giúp đỡ của chủ bút về việc duyệt bản thảo, phân phối và quảng bá tác phẩm còn rất sơ sài. 
Mãi đến năm 1825 phần lớn các nhà văn Mỹ phải trả tiền nhà in để họ xuất bản tác phẩm của mình.  Rõ ràng là chỉ những người có thì giờ rảnh rỗi và sống độc lập giàu có như Washingotn Irving hay nhóm  Knickerbocker * ở New York, nhóm các nhà thơ ở Connecticut (thường được gọi là nhóm Hartford Wits**) mới có thể có thì giờ và tiền bạc để phát huy sở thích viết văn của mình.  Benjamin Franklin là một trường hợp ngoại lệ, mặc dù xuất thân nhà nghèo, nhưng vì ông làm trong ngành in nên có thể in tác phẩm của mình.
Charles Brockden Brown là một thí dụ điển hình.  Là tác giả viết nhiều tiểu thuyết lãng mạn theo kiểu Gothic, ông là nhà văn Mỹ đầu tiên kiếm sống bằng ngòi bút.  Nhưng rồi ông lại qua đời sớm trong nghèo đói.
Thiếu độc giả lại là một vấn đề khác nữa. Số độc giả có học ít ỏi tại Mỹ lại mong được đọc các tác giả nổi tiếng ở Âu châu, một phần xuất phát từ lòng kính trọng thái quá vốn có của người di dân ở vùng thuộc địa đối với những người từng cai trị họ trước đây.  Việc người Mỹ yêu thích các tác phẩm ở Anh hơn không phải không có lý do, vì phải nhìn nhận các tác phẩm ra đời ở Mỹ lúc ấy kém hơn, nhưng chính điều này đã làm tình hình xấu thêm, vì nó đã lấy mất độc giả của các nhà văn Mỹ. Chỉ có ngành báo chí là đem lại thu nhập cho người viết, nhưng quần chúng độc giả lại thích thơ ca nhẹ nhàng, không quá khó hiểu, và những bài nghị luận ngắn viết về một đề tài nào đó, mà không phải những tác phẩm dài với chủ đề mới lạ.
Không có luật về bản quyền hợp lý đầy đủ có lẽ là lý do rõ ràng nhất khiến văn học bị trì trệ.  Các nhà in sách ở Mỹ in lại những sách bán chạy nhất ở Anh.  Cũng dễ hiểu khi họ không muốn trả tiền cho các nhà văn Mỹ nếu tác phẩm không được ai biết đến. Việc in lậu không giấy phép các sách từ nước ngoài lúc đầu được xem như một cách phục vụ thuộc đ̣ia ở Mỹ, và nó đem lại thu nhập cho những người in sách như Ben Franklin, người đã in lại các sách kinh điển và các tác phẩm lớn của Âu châu để giáo dục công chúng My.
----
*        *The Knockerbocker writers: nhóm các nhà văn thường cộng tác với tạp chí văn học The Knickerbocker ( tức  The New-York Monthly Magazine) do Charles Fenno Hoffman sáng lập năm 1833 và tiếp tục xuất bản mãi đến năm 1865.  Nhóm gồm William Cullen Bryan, Henry Wadsworth Longfellow, Oliver Wendell Holmes, James Russell Lowell,  và nhiều nhà văn khác nữa.   https://en.wikipedia.org/wiki/The_Knickerbocke
     **The Hartford Wits (tức The Connecticut Wits) gồm các nhà văn trẻ vùng Connecticut, nguyên gốc  hình thành từ nhóm văn tại Yale University vào đầu thế kỷ 18, gồm David Humphreys, Joel
Barlow, Lemuel Hopkins, và John Trumbull.
Các nhà in khác bắt đầu theo cách Ben Franklin khởi xướng.  Matthew Carey, một nhà xuất bản Mỹ có tầm cỡ, đã thuê người ở London, làm dọ thám văn học, để gửi cho ông các trang sách được viết ra nhưng chưa đóng thành sách, kể cả bản thảo, qua ngõ các chuyến tàu đi nhanh, chỉ mất một tháng đã đến Mỹ.  Người của Carey sẽ đi thuyền ra đón các tàu ấy để xúc tiến việc in các sách bị lấy cắp bằng cách cho thợ sắp chữ chia sách thành nhiều phần,và họ thay phiên nhau sắp chữ ngày đêm để lên khuôn.  Một quyển sách bị lấy cắp như thế có thể được in lại trong vòng một ngày, và đem bày bán trên kệ ở Mỹ cũng nhanh như ở Anh vậy. 
Vì các ấn bản được phép nhập cảng vào Mỹ giá đắt hơn và không thể cạnh tranh với những sách bị lấy cắp để in lậu, tình trạng vi phạm bản quyền này đã làm phương hại nhiều đối với các nhà văn nước ngoài như Sir Walter Scott hay Charles Dickens, cũng như hại cả các tác giả Mỹ.  Nhưng ít ra các tác giả ngoại quốc còn nhận được thù lao từ nhà xuất bản gốc và họ cũng đã nổi danh rồi.  Còn các nhà văn Mỹ như James Fenimore Cooper chẳng những không được hưởng thù lao xứng đáng mà còn chịu đựng cảnh thấy tác phẩm của mình bị đánh cắp sờ sờ trước mắt.  Tác phẩm thành công đầu tiên của Cooper, Kẻ Dọ Thám (1821) đã bị các nhà in khác nhau đánh cắp chỉ trong vòng một tháng sau khi tác phẩm ra đời.
Mỉa mai thay, luật bản quyền ban ra năm 1790, lại cho phép in lậu sách, với mục đích phục vụ dân tộc.  Đạo luật ấy do Noah Webster soạn thảo.  Ông là nhà từ vựng học nổi danh về sau đã soạn ra quyển tự điển Mỹ Webster.  Đạo luật này chỉ bảo vệ tác phẩm do nhà văn Mỹ viết, và cho rằng các nhà văn nước ngoài phải tự lo lấy chuyện bản quyền của họ.
Mặc dù đạo luật ấy tồi tệ, không một nhà xuất bản nào vào thời ấy muốn sửa đổi nó, vì nó có lợi cho họ.  In sách lậu khiến các tác giả Mỹ thế hệ đầu của thời kỳ Cách mạng sống dở chết dở; và không có gì đáng ngạc nhiên khi thế hệ nhà văn tiếp theo đó càng có ít tac pham giá trị.  Năm 1815, năm cao điểm của việc in sách lậu, cũng là năm tệ hại nhất cho nền văn học Mỹ.  Dù vặy, trong 50 năm đầu tiên từ khi nước Mỹ được thành lập, nguồn sách, kể cả các sách kinh điển, từ nước ngoài vào Mỹ, được in lậu vừa rẻ vừa nhiều đã góp phần vào việc giáo dục người dân Mỹ, trong đó có những nhà văn lớn đầu tiên, tức những nhà văn bắt đầu xuất hiện vào khoảng năm 1825.

Phong Trào Khai Sáng của Mỹ
Phong trào Khai sáng của Mỹ vào thế kỷ 18 là một phong trào nhấn mạnh nhiều về lý trí hơn vào niềm tin theo truyền thống, nhấn mạnh việc tìm hiểu khoa học hơn việc chỉ vâng theo giáo điều, và coi trọng chính quyền dân cử hơn chế độ quân chủ.  Các nhà tư tưởng và nhà văn thuộc phong trào này một lòng phục vụ lý tưởng công bằng, tự do và bình đẳng, xem đó là những quyền tự nhiên của con người.
Benjamin Franklin (1706-1790)
Benjamin Franklin, người mà triết gia Tô cách lan David Hume gọi là “nhà văn hóa vĩ đại đầu tiên của Mỹ,” là hiện thân cho lý tưởng Khai sáng lý tính của loài người.  Thực tế nhưng lý tưởng, hăng say làm việc và thành công vô vàn, Franklin đã ghi lại cuộc đời thơ ấu của mình trong quyển Tự Truyện nổi tiếng.  Là nhà văn, thợ in, nhà xuất bản, khoa học gia, nhà hoạt động từ thiện và nhà ngoại giao, ông là người nổi tiếng nhất và được kính trọng nhất vào thời ấy.  Ông là người tự lập thân vĩ đại đầu tiên của Mỹ, là người nghèo có tư tưởng dân chủ, sinh vào thời kỳ phong kiến quý tộc thống trị, một thời kỳ mà tấm gương sáng của ông đã giúp khai phóng.
Franklin là người di dân thuộc thế hệ thứ hai. Cha ông là thợ làm nến ̣(đèn cầy), theo giáo phái Puritan từ Anh di cư sang Mỹ đến Boston, Massachusettsnăm năm 1683.  Cuộc đời của Franklin đã minh họa ảnh hưởng về nhiều mặt của phong trào Khai sáng  đối với một người có năng khiếu đặc biệt.  Tự học và đọc nhiều sách của John Locke*, Lord Shaftesbury**, Joseph Addison***, và những nhà Khai sáng khác, Franklin đã học được nơi họ cách suy luận, áp dụng lý trí vào đời sống, và thoát ra khỏi khuôn khổ truyền thống, nhất là truyền thống Puritan cổ xưa, khi nó đe dọa bóp nghẹt tư tưởng của ông.  Thời còn trẻ, Franklin tự học ngôn ngữ, đọc nhiều và tập viết bài cho công chúng.  Khi ông từ Boston dọn đến Philadelphia, tiểu bang Pennsylvania, Franklin đã có trình độ học vấn như trình độ một người thuộc tầng lớp thượng lưu. Ông cũng có khả năng làm việc cần cù, kỹ lưỡng, thường tự kiểm điểm, và khát khao cải thiện bản thân giống những người Puritan.  Nhừ những đức tính ấy ông dần dần trở nên giàu có, được mọi người kính trọng,với nhiều vinh dự nữa.  Không bao giờ ích kỷ, Franklin cố gắng giúp những người thường dân khác cũng được thành công như mình bằng cách chia xẻ tư tưởng suy nghĩ của ông với họ và khởi xướng ra loại hình văn học đặc thù Mỹ là loại sách “học làm người.”

Quyển Sổ tay niên giám của chàng Richard nghèo (Poor Richard’s Almanack) của Franklin ra đời năm 1732 và được xuất bản nhiều năm sau đó làm ông trở nên giàu có và nổi tiếng khắp các miền thuộc địa.  Quyển sách được in ra hàng năm này gồm những lời khuyến khích, khuyên bảo và thông tin hữu dụng, với những nhân vật dí dỏm vui nhộn như Đức Cha Abraham cao niên và chàng Richard nghèo, đã sách tấn độc giả qua những câu nói xúc tích, đáng ghi nhớ. Trong chương tựa đề “Con đường làm giàu,” bản gốc trong quyển niên giám, Cha Anbraham, "một cụ già sạch sẽ giản dị, với mái tóc bạc phơ,"  theo lời chàng Richard nghèo, đã nói: “Một lời đối với người khôn cũng đủ.” “Thượng Đế giúp kẻ tự giúp mình.” “Đi ngủ sớm, dậy sớm giúp con người được khỏe mạnh, giàu có và khôn ngoan.”  Chàng Richard nghèo là một nhà tâm lý. ̣(“Cần cù giúp bạn trả nợ, còn Nản chí chỉ làm tăng thêm nợ.”), và chàng luôn khuyên người ta nên cần cù làm việc (“Siêng năng là mẹ của may mắn”). 
Ông khuyên chúng ta không nên lười biếng vì “Một hôm nay đáng giá hai ngày mai.”  Đôi khi ông sáng tạo ra những giai thoại để minh họa cho quan điểm của ông.  “ Sơ suất nhỏ có thể là mầm mống dẫn đến hành vi xấu lớn....Vì thiếu một cây đinh mà móng ngựa bị sút. Vì thiếu một móng ngựa mà con ngựa đi lệch đường. Vì thiếu một con ngựa mà người kỵ sĩ bị lạc đoàn, bị kẻ thù khống chế và giết chết. Tất cả qui lại chỉ vì thiếu mất một cái đinh móng cho con ngựa.”  Franklin quả có tài rút ra bài học đạo đức để dạy chúng ta.  “Duy trì một tật xấu có thể dung dưỡng hai đứa trẻ.” “Vết thủng nhỏ có thể làm đắm chiếc tàu lớn.”  “Kẻ ngu bày tiệc, người khôn ăn tiệc.”
Quyển Tự Truyện của Franklin về một mặt nào đó thuộc loại sách học làm người.  Ông viết quyển sách ấy để khuyên con trai, và sách chỉ nói về thời ông còn trẻ.  Đoạn sách nổi tiếng nhất mô tả kế hoạch khoa học ông vạch ra để sửa mình tốt hơn.  Franklin nêu ra 13 đức tính: tiết độ, im lặng, trật tự, cương quyết, cần kiệm, siêng năng, chân thật, công bằng, trung dung (vừa phải), sạch sẽ, trầm tĩnh, trung chuyên tiết hạnh, và nhún nhường khiêm tốn.  Ông kèm thêm mỗi đức tính một câu châm ngôn ngắn, thí dụ, câu châm ngôn cho đức tính tiết độ là “Ăn đừng để đến mức thấy ngán, Uống rượu đừng để đến độ say ngất ngưởng.”  Là một nhà khoa học thực tế, ông dùng chính bản thân ông làm thí nghiệm về lý tưởng toàn thiện của con người.
Để rèn luyện những thói quen tốt, Franklin tạo ra một quyển sổ tay có ghi ngày tháng.  Mỗi tuần ông huân tập một đức tính; ngày nào không làm tốt, ông sẽ ghi vào đó một chấm đen.  Phương cách của ông sau này trở thành thuyết hành vi trong ngành tâm lý học, còn phương pháp ký hiệu có hệ thống do ông đề ra đã tiên liệu cho phương pháp sửa đổ hành vi ngày nay.  Cách tự sửa bản thân đã kết hợp hài hòa lòng tin vào tính toàn thiện của con người theo tinh thần Khai sáng với thói quen tự kiểm tra đạo đức bản thân của giáo phái Puritan.
Ngay từ khi còn trẻ Franklin đã thấy viết ăn có thể giúp tư tưởng của ông tiến xa, vì thế ông nỗ lực hoàn thiện văn phong linh động uyển chuyển của mình, không phải chỉ để viết văn hay hơn, mà cốt dùng văn làm công cụ truyền đạt tư tưởng. Ông khuyên chúng ta “Viết cho người có học.  Nói cho người ít học.” Là một nhà khoa học, ông đã theo lời khuyên của Hội Khoa học Hoàng Gia vào năm 1667 về việc nên “dùng cách nói tự nhiên, gần gũi, không màu mè, với cách diễn đạt tích cực, ý nghĩa rõ ràng, dung dị của người bản xứ, để trình bày mọi thứ một cách hết sức đơn giản như toán học.”
Mặc dù giàu có và đầy danh vọng, Franklin không bao giờ đánh mất lòng nhạy cảm về tinh thần dân chủ của mình.  Ông là một nhân vật quan trọng tại Hội nghị soạn thảo Hiến pháp Mỹ năm 1787.  Những ăm cuối đời ông là chủ tịch hội chống lại chế độ nô lệ da đen.  Một trong những nỗ lực cuối đời của Franklin là cổ xúy việc nâng cao nền giáo dục công lập cho mọi người
----
*John Locke (1632-1704) triết gia và bác sĩ người Anh, và là một trong những nhà Khai sáng có ảnh hưởng lớn nhất.
https://en.wikipedia.org/wiki/John_Locke
**Anthony Ashley Cooper (1621-1683), First Earl of Shaftesbury, sau trở thành Lord Ashley (1661-1672), là nhà chính trị lỗi lạc sáng lập ra Đảng Whig,  dưới triều vua Charles II, và là người đỡ đầu cho John Locke.
https://en.wikipedia.org/wiki/Anthony_Ashley_Cooper,_1st_Earl_of_Shaftesbury
*** Joseph Addison (1672-1719) nhà viết nghị luận, nhà thơ, nhà viết kịch và chính trị gia, người cùng với Richard  Steele (1672-1729) sáng lập ra tạp chí The Spectator.
https://en.wikipedia.org/wiki/Joseph_Addison

Hector St. John de Crevecoeur (1735-1813)
Một nhân vật khác của phong trào Khai sáng là Hector St. John De Crevecoeur.  Tác phẩm Lá thư của một chủ nông trại Mỹ (1782) của ông đã đem đến cho người Âu châu một lý tưởng tươi sáng về các cơ hội thanh bình, giàu có và đầy tự hào ở Mỹ.  Không phải là người Mỹ cũng không phải là chủ nông trại mà là một nhà quý tộc người Pháp có một điền trang ở ngoại ô thành phố New York trước Cách mạng, Crevecoeur đã nhiệt tình ca ngợi các thuộc địa Mỹ châu đã cần cù lao động, cởi mở phóng khoáng và ngày càng trở nên thịnh vượng qua 12 lá thư mô tả đất Mỹ như một thiên đàng sống nhờ nông nghiệp.  Cái nhìn này của ông đã gợi hứng cho Thomas Jefferson, Ralph Waldo Emerson, và nhiều nhà văn nữa mãi cho dến ngày nay.
Crevecoeur là người Âu châu đầu tiên có cái nhìn thấu đáo về Mỹ và về người Mỹ mới.  Ông là người đầu têen dùng hình ảnh “nồi thập cẩm” (melting pot) để ám chỉ nước Mỹ.  Trong một đoạn văn nổi tiếng ông đã đặt câu hỏi:
Vậy thì con người mới này, tức người Mỹ, là ai?  Anh ta hoặc là người Âu châu, hoặc là con cháu họ, mang dòng máu hợp chủng kỳ lạ mà bạn không thể tìm thấy ở một xứ nào khác.  Tôi có thể đơn cử cho bạn thấy một gia đình trong đó người ông là người Anh, có vợ người Hòa lan, họ có đứa con trai lấy vợ Pháp, sanh ra bốn người con lấy bốn bà vợ đến từ những quốc gia khác nhau.  Ở xứ này người từ tứ xứ pha trộn với nhau làm thành một giống dân mới mà bầng lao động và sự giàu có của mình, họ sẽ làm thay đổi cả thế giới.
                                                                



Nguồn:
http://ufdc.ufl.edu/AA00011697/00001