Mặc dù giữa hai trận thế chiến các tác giả văn xuôi Mỹ có những thử nghiệ̣m về quan điểm và hình thức diễn đạt, nói chung, các nhà văn viết theo khuynh hướng tả chân nhiều hơn văn
sĩ Âu châu. Tiểu thuyết gia Hemmingway
viết về chiến tranh, săn bắn, và những mối quan tâm đeo đuổi của nam giới với văn phong giản dị, ngắn gọn. William Faulkner sáng
tác các tiểu thuyết mạnh bạo, kể về nhiều thế hệ và văn hóa miền nam
trong bối cảnh nóng bức đầy bụi đất miền Mississippi; và Sinclaire Lewis miêu tả rõ đời sống giới tiểu tư sản một cách mỉa mai.
Chủ đề chính trong những năm 1920
và 1930 là tầm quan trọng khi văn nghệ sĩ đối đầu với thực tại: Các tác giả như F.
Scott Fitzgerald và nhà biên kịch Eugene O’Neill thường xây dựng tấn bi kịch chờ đợi những người sống trong mộng tưởng hão huyền.
F. Scott Fitzgerald (1896-1940)
Cuộc đời của Francis
Scott Key Fitzgerald giống như một câu chuyện thần tiên. Trong thế chiến thứ nhất, ông gia nhập quân đội và yêu một cô gái đẹp nhà giàu tên Zelda Sayre sống gần Montgomery, tiểu bang Alabama,
nơi ông đóng quân. Zelda tờ chối lời cầu
hôn của ông vì ông khá nghèo. Khi chiến
tranh kết thúc ông giải ngũ và đến thành phố New York tìm cách làm giàu bằng
ngòi bút để có thể cưới cô.
Quyển tiểu
thuyết đầu tay của ông, tựa đề Phía Bên
Này Vườn Địa Đàng (1920), trở thành cuốn sách bán chạy nhất năm ấy, và hai người đã thành hôn khi ông 24 tuổi. Cả
hai đều không thể chịu đựng nổi sự căng thẳng do thành công và danh vọng đem
lại, và họ sống hoang phí. Họ sang
Pháp năm 1924 để có thể sống cần kiệm lại, rồi trở về Mỹ bảy năm sau. Zelda mắc bệnh tâm thần, phải vào bệnh
viện; còn Fitzgerald trở nên nghiện rượu và qua đời khi ông hãy còn trẻ và mưu sinh bằng cách viết kịch bản cho điện ảnh.
Địa vị vững
vàng của Fitzgerald trong văn học Hoa kỳ chủ yếu dựa trên tác phẩm Gatsby Vĩ Đại/The Great Gatsby (1925),
một câu chuyện được ông viết xuất sắc, có cấu trúc gãy gọn, nói về giấc mơ thành đạt ở Mỹ của một
người tự lập thân. Nhân vật chính đầy bí ẩn tên Jay Gatsby đã nhận thấy cái giá phũ phàng ông phải trả để đạt được các tham vọng cá nhân và tình yêu. Những tác
phẩm hay khác của Fitzgerald gồm Đêm Yêu Kiều/Tender Is the Night (1934) kể về một bác sĩ tâm thần trẻ tuổi phải chịu một cuộc đời bị hủy hoại vì cưới người vợ tính tình bất thường, và một số truyện khác đăng trong tập Những Cô Gái Đợt
Sống Mới và Nhà Triết Học/Flappers and Philosophers (1920),
Những Câu Chuyện Thời Nhạc Jazz/Tales of the Jazz Age (1922), và Tất Cả Những Người Đàn Ông Trẻ Sầu Muộn/All the
Sad Young Men (1926). Hơn bất kỳ một văn sĩ nào khác, Fitzgerald đã nắm bắt được đời sống hào nhoáng, chán chường vô
vọng của người Mỹ những năm 1920. Phía
Bên Này Vườn Địa Đàng đã nói lên tiếng nói của giới trẻ Mỹ hiện đại.
Trong quyển tiểu thuyết thứ hai tựa đề Người Đẹp và Kẻ Khốn Nạn/The Beautiful and the Damned (1922) ông
tiếp tục đi sâu khám phá thói tiêu xài xa xỉ tự hủy diệt trong thời đại
của ông.
Giá trị đặc
biệt của Fitzgerald nằm ở văn phong độc đáo khiến người đọc choáng ngợp, hoàn toàn
phù hợp với chủ đề nói về những gì quyến rũ, hấp dẫn. Một đoạn nổi tiếng trong Gatsby Vĩ Đại ̣đã tóm lược tài tình những gì diễn ra trong suốt một
thời gian dài:
“Có tiếng nhạc vang
lên từ nhà người hàng xóm của tôi suốt những đêm hè. Mấy gã đàn ông cùng các cô gái lai vãng trong khu vườn chong đèn xanh lơ
của ông ta, giống như những con thiêu thân lẫn trong tiếng nói rù rì, tiếng mở rượu champagne dưới mấy chòm sao sáng.”
Ernest Hemingway (1899-1961)
Ít nhà văn nào có đời sống phong phú như Hemingway, nhà văn đã tạo nên sự nghiệp lớn qua một trong số những tiểu thuyết mạo hiểm của mình. Giống như Fitzgerald, Dreiser và những nhà văn nổi tiếng khác của thế kỷ 20, Hemingway xuất thân từ miền Trung tây nước Mỹ. Sinh ra tại Illinois, thuở thời thơ ấu Hemingway thường nghỉ hè với những chuyến đi săn và câu cá ở Michigan. Ông tình nguyện phục vụ trong một đơn vị cứu thương của quân đội Pháp trong thế chiến thứ nhất, ông bị thương và nằm bệnh viện sáu tháng. Sau chiến tranh ông là phóng viên viết về chiến tranh, sống tại Paris. Ở đó ông gặp nhiều người Mỹ tha hương như Sherwood Anderson, Ezra Pound, F. Scott Fitzgerald, và Gertrude Stein. Riêng Stein có ảnh hưởng mạnh đến lối hành văn ngắn gọn của ông.
Ernest Hemingway (1899-1961)
Ít nhà văn nào có đời sống phong phú như Hemingway, nhà văn đã tạo nên sự nghiệp lớn qua một trong số những tiểu thuyết mạo hiểm của mình. Giống như Fitzgerald, Dreiser và những nhà văn nổi tiếng khác của thế kỷ 20, Hemingway xuất thân từ miền Trung tây nước Mỹ. Sinh ra tại Illinois, thuở thời thơ ấu Hemingway thường nghỉ hè với những chuyến đi săn và câu cá ở Michigan. Ông tình nguyện phục vụ trong một đơn vị cứu thương của quân đội Pháp trong thế chiến thứ nhất, ông bị thương và nằm bệnh viện sáu tháng. Sau chiến tranh ông là phóng viên viết về chiến tranh, sống tại Paris. Ở đó ông gặp nhiều người Mỹ tha hương như Sherwood Anderson, Ezra Pound, F. Scott Fitzgerald, và Gertrude Stein. Riêng Stein có ảnh hưởng mạnh đến lối hành văn ngắn gọn của ông.
Sau khi bắt đầu nổi tiếng với tiểu thuyết Mặt Trời
Vẫn Mọc/The Sun Also Rises (1926), ông viết bài về nội chiến Tây Ban Nha
trong thế chiến thứ hai, và những trận đánh ở Trung quốc vào những năm
1940. Trong một chuyến đi săn bắn ở Phi
châu, ông đã bị thương nặng khi máy bay nhỏ của ông rơi; nhưng ông vẫn tiếp
tục ham mê đi săn và câu cá, những hoạt động đã gợi hứng cho ông sáng tác nên một
số tác phẩm hay nhất. Ngư Ông và Biển Cả/The
Old Man and the Sea (1952), quyển tiểu thuyết ngắn đầy thơ mộng của ông
kể về một ông lão đánh cá nghèo dũng cảm bắt được một con cá khổng lồ, nhưng con cá đã
bị đàn cá mập đến ăn thịt, đã được giải Pulitzer năm 1953, và năm sau ông được giải Nobel văn chương. Chán nản
vì cảnh gia đình đổ vỡ, vì bệnh tật, và cho rằng mình đã mất đi khả năng viết
truyện hay, Hemingway đã tự sát bằng súng vào năm 1961.
Hemingway có lẽ là tiểu thuyết gia được ưa chuộng nhất vào
thế kỷ 20. Ông diễn đạt những tình cảm
nhân đạo, phi chính trị, và theo nghĩa ấy ông là nhà văn của đại chúng. Với văn phong đơn giản, tiểu thuyết
của ông dễ hiểu, và thường có bối cảnh ở một nước xa lạ. Là người “ tôn sùng kinh nghiệm sống,” Hemingway
thường để nhân vật của ông dính líu vào những tình huống nguy hiểm, để qua đó thể hiện
rõ bản chất sâu kín; trong các tác phẩm ông sáng tác về sau, mối hiểm
nguy đôi khi trở thành thời điểm nhân vật khẳng định nam tính của mình. Giống như Fitzgerald, Hemingway trở thành
người phát ngôn cho thế hệ của ông.
Nhưng thay vì vẽ lên nét hào nhoáng thiêu thân của thói đời như
Fitzgerald, người không tham chiến, Hemingway viết về chiến tranh, cái chết và “thế hệ lạc loài” của những người sống sót đầy
bi quan và chua chát sau thế chiến.
Nhân vật của ông không phải là những con người mơ mộng, mà là những tay đấu
bò, binh lính và kẻ thi đấu thể thao chuyên nghiệp (các võ sĩ).
Nếu có học, họ là người mang trong lòng những vết sẹo hằn sâu và bị mất
niềm tin.
Nét son của Hemingway là văn phong sáng sủa, không
hề dư một chữ. Ông
thường kiệm lời. Trong tiểu thuyết Giã Từ Vũ Khí/A Farewell to Arms (1922), nhân vật nữ chết
trong lúc sanh con đã nói: “Em không thấy sợ chút nào cả. Đây chỉ là một màn diễn tồi.” Hemingway có lần đã ví văn của ông như những tảng
băng: “Ứng với một phần nhỏ nổi trên mặt nước lại có 7 phần 8 chìm dưới nước.”
Biệt tài của Hemingway là nét tinh tế trong các đối thoại và cách mô tả
chính xác thể hiện qua các truyện ngắn xuất sắc như “Tuyết Trên Đỉnh Núi Kilimanjaro”
và “Cuộc Đời Hạnh Phúc Ngắn Ngủi Của Francis
Macomber.” Theo các nhà phê bình, truyện ngắn của Hemingway có giá trị ngang bằng hoặc vượt hơn
cả tiểu thuyết của ông. Những tiểu
thuyết hay nhất của ông gồm Mặt Trời Vẫn
Mọc, nói về cuộc sống vất vưởng của những kẻ tha hương sau thế chiến thứ
nhất, Giã Từ Vũ Khí, nói về mối tình
bi thảm của một người lính Mỹ và cô y tá người Anh trong chiến tranh, Chuông Gọi Hồn Ai (1940) với bối cảnh
nội chiến Tây Ban Nha, và Ngư Ông và Biển
Cả.
William Faulkner (1897-1962)
Sinh ra trong một gia đình miền nam cổ kính, William Harrison Faulkner lớn lên tại thành phố Oxford, tiểu bang Mississippi, và sống gần trọn đừi ở đó. Faulkner tạo nên một bối cảnh hư cấu cho các tiểu thuyết của mình, đó là Quận Yoknapatawpha nơi có nhiều gia đình cùng những quan hệ chằng chịt qua nhiều ̣đời. Quận Yoknapatawpha với thủ phủ tên “Jefferson,” được hư cấu theo khuôn
mẫu thành phố Oxford, Mississippi, và những vùng phụ cận đã được Faulkner
tái hiện dựa trên lịch sử địa phương với các sắc dân như người da đỏ, người Mỹ đen, người Mỹ gốc Âu châu, cùng các nhóm dân lai nhiều dòng máu khác nhau từng sống ở đó. Là nhà văn có nhiều tư tưởng mới lạ, Faulkner đã thử nghiệm tài tình cách kể
chuyện theo trình tự thời gian, sử dụng những quan điểm và tiếng nói của các nhân
vật khác nhau (gồm những kẻ sống bên lề xã hội, trẻ em, và người thất học),
với cách hành văn baroque cổ điển phong phú, khó hiểu, những câu văn dài đầy mệnh đề phụ phức tạp.
Các tiểu
thuyết hay nhất của Faulkner gồm Âm Thanh
và Cuồng Nộ/The Sound and the Fury (1929) và Khi Tôi Đang Nằm Hấp Hối/As I Lay Dying (1930), hai tác phẩm hiện đại trong đó ông thử nghiệm cái nhìn và tiếng nói của các nhân vật, khảo sát những
gia đình ở miền nam lúc họ trải qua nỗi căng thẳng khi mất người thân; Ánh Sáng
Tháng Tám/Light in August (1932) kể về mối quan hệ phức tạp và tàn bạo giữa một
người đàn bà da trắng và một người đàn ông da đen; và tiểu thuyết Absalom, Absalom!* (1936), đây có lẽ là tác phẩm hay nhất của ông, nói về sự thành đạt của một người chủ đồn điền tự dựng nên sự nghiệp và thất
bại bi thảm của ông gây ra do thành kiến sắc tộc và do không biết yêu thương.
Hầu hết các
tiểu thuyết này đều sử dụng các nhân vật khác nhau để kể về từng phần của câu
chuyện, qua đó độc giả thấy ý nghĩa nằm ở cách kể chuyện cũng như ở chủ đề tác
phẩm. Việc sử dụng những cách nhìn khác
nhau khiến Faulkner trở thành nhà văn tự phản tỉnh (“self-referential”/”reflecxive”
**) hơn Hemingway hoặc Fitzgerald; mọi tiểu thuyết ông viết đều tự nhìn lại những
gì đã xảy ra, đồng thời nó tiết lộ một câu chuyện liên quan đến vấn đề nhiều người
quan tâm. Các chủ đề Faulkner đề cập gồm những vấn đề truyền thống, gia đình, cộng đồng ở miền nam nước Mỹ, đất đai, lịch sử và
quá khứ của vùng đất ấy, vấn đề chủng tộc, những đam mê tham vọng và tình yêu. Ông cũng sáng tác ba tác phẩm nói về sự suy thoái
của gia tộc Snopes Thôn Làng/The Hamlet (1940),
Thị Xã/The Town (1957), và Ngôi Biệt Thự/The Mansion (1959).
------
*
Giống như những tiểu thuyết khác của Faulkner, Absalom, Absalom! ngụ ý nói về lịch sử miềm nam; tựa đề tác phẩm là ẩn dụ về đứa con ngỗ nghịch chống lại đế chế do cha mình gây dựng nên, tương tự câu chuyện trong Kinh thánh về Vua David và Absalom, con trai của David, kẻ đã nổi loạn chống lại cha mình (khi ấy là Vua của Israel) và đã bị Joab tướng của Vua David giết chết thay vì nghe theo lệnh của Vua David là phải đối xử nhẹ nhàng với con trai Vua, và do đó khiến Vua hết sức đau đớn.
Like other Faulkner novels, Absalom, Absalom! allegorizes Southern history; the title itself is an allusion to a wayward son fighting the empire his father built, much like the Biblical story of King David and Absalom, a son of David, who rebelled against his father (then King of Kingdom of Israel) and who was killed by David's general Joab in violation of David's order to deal gently with his son, causing heartbreak to David.
Like other Faulkner novels, Absalom, Absalom! allegorizes Southern history; the title itself is an allusion to a wayward son fighting the empire his father built, much like the Biblical story of King David and Absalom, a son of David, who rebelled against his father (then King of Kingdom of Israel) and who was killed by David's general Joab in violation of David's order to deal gently with his son, causing heartbreak to David.
Câu chuyện về Thomas Sutpen phản ảnh bước thăng trầm của văn hóa điền trang miền nam nước My....Bằng cách dùng nhiều nhân vật để kể chuyện và trình bày câu chuyện theo cách nhìn vấn đề của riêng mỗi người, quyển tiểu thuyết đã ngầm nói lên tinh thần văn hóa lịch sử bàng bạc khắp miền nam mà Faulkner sinh trưởng, nơi mà qúa khứ luôn là hiện tại, và thường xuyên được chỉnh sửa qua lời kể của người này người kia trải qua bao năm tháng; và vì thế, tác phẩm cũng đi sâu khám phá tiến trình huyền thoại hóa và đặt vấn đề đâu là sự thật.
The history of Thomas Sutpen mirrors the rise and fall of Southern plantation culture….
The history of Thomas Sutpen mirrors the rise and fall of Southern plantation culture….
By using various narrators expressing their interpretations,
the novel alludes to the historical cultural zeitgeist (“spirit of the age”) of
Faulkner's South, where the past is always present and constantly in states of
revision by the people who tell and retell the story over time; it thus also
explores the process of myth-making and the questioning of truth.
Absalom, Absalom cùng với Âm Thanh
và Cuồng Nộ/The Sound and the Fury đã giúp Faulkner được trao giải Nobel Văn chương. Năm 2009 một ban giám khảo bình duyệt đã tuyên bố Absalom,
Absalom! là tác phẩm miền nam hay nhất từ xưa đến giờ.
Absalom, Absalom, along with The Sound And the Fury, helped Faulkner win the Nobel Prize in Literature. In 2009, a panel of judges called Absalom, Absalom! the best Southern novel of all time
Absalom, Absalom, along with The Sound And the Fury, helped Faulkner win the Nobel Prize in Literature. In 2009, a panel of judges called Absalom, Absalom! the best Southern novel of all time
**
No comments:
Post a Comment
Note: Only a member of this blog may post a comment.