Tuesday, October 1, 2019

Lời Mở Đầu -- Tập Truyện Ngắn Nổi tiếng Của Mỹ


Một trăm hai mươi lăm năm trước, * vào ngày 14 tháng Giêng năm 1832, Edgar Allan Poe cho đăng trong tờ Philadelphia Saturday Courier truyện ngắn “Metzengerstein.” Trong đó lần đầu tiên ông đã sử dụng kỹ thuật tạo hiệu ứng duy nhất ,** mà dựa theo đó các nhà văn đã sáng tác ra truyện ngắn hiện đại.  Cái khởi đầu do người Mỹ sáng tạo đã trở thành một chuyên môn của Mỹ: trong số tất cả các nhà viết truyện ngắn bằng tiếng Anh, những văn sĩ lớn nhất đều là người Mỹ, có lẽ với khoảng sáu ngoại lệ trong suốt một trăm hai mươi lăm năm qua.  Trong số sáu ngoại lệ phải kể Kipling là người Anh thực dân xứ Ấn độ, Conrad đã rời bỏ Ba lan sang Anh sống, Joyce và O’Connor người Ái nhĩ lan, Katherine Mansfield người Tân tây lan, và D. H. Lawrence người Anh chính thống.  Cũng trong những năm ấy, ở Mỹ không chỉ đã có Poe và Hawthorne, hai văn sĩ đồng sáng tạo ra thể loại truyện ngắn, mà còn xuất hiện Henry James, Stephen Crane, Sherwood Anderson, Ring Lardner, Ernest Hemingway, William Faulkner, Katherine Ann Parter, và hai tá văn sĩ đầy tài năng tuy kém nổi tiếng hơn, những người đã tiếp thu những gì Poe và Hawthorne để lại, và còn làm phong phú và phát triển thêm, làm tinh chuyên và mạnh mẽ hơn thể loại truyện ngắn.  Một phần vì bắt đầu sớm như thế, một phần vì các điều kiện đa dạng của Mỹ và bản chất ngành báo chí Mỹ, mức độ chung về thành tựu của thể loại truyện ngắn ở Mỹ có lẽ cao hơn ở bất cứ nơi nào khác trên thế giới.  Nếu có một thể loại văn học nào có thể diễn đạt trọn vẹn đầy đủ nhất dân tộc Mỹ, thì đấy chính là truyện ngắn --nhạy cảm, trang trọng, tập trung, ngắn gọn và thấm sâu tâm hồn người đọc.
Trong tuyển tập này chắc chắn sẽ có vài truyện ngắn khá quen thuộc.  Đọc qua hàng trăm hay hàng ngàn truyện trong các quyển sách về văn chương dùng lm qu tặng của thế k 19,***các ấn bn tân niên, tp ch và những bộ sưu tầm, chúng ta s thấy trân qucc qu trnh mà thời gian cùng cc nh biên son tuyển tập đã tri qua để sng lc truyện hay ra khỏi truyện tồi.  Thường những truyện hay nhất cũng là những truyện được nhiều người biết đến nhất, như trường hợp Washington Irving: chưa bao giờ ông viết hay bằng, và càng hiếm hơn nữa số truyện ông viết hay hơn hai truyện ngắn “Rip Van Wrinkle” và “The Legend of the Sleepy Hollow” (Huyền thoại về kỵ sĩ không đầu).  Cũng vậy, đối với các nhà văn khác, hầu như không thể tìm thấy một truyện ngắn nào ít được biết đến nhưng lại là một trong những truyện hay nhất của cùng một tác giả.  Khi chọn truyện ngắn cho tuyển tập này, nhất là với các nhà văn thế kỷ 19, phần lớn chúng tôi chỉ chọn truyện nào chúng tôi ngưỡng mộ nhất, chứ không tìm hiểu xem nó đã được in trong các tuyển tập bao nhiêu lần rồi.  Thực ra, chúng tôi có hai tiêu chuẩn để chọn lựa: tính tuyệt hảo của bản thân truyện, và tính đại diện hay tiêu biểu của nó trong lịch sử phát triển truyện ngắn ở Hoa kỳ.
-----
*
Great American Short Stories (New York: NY, Dell Publishing Co., Inc., 1957).  Edited by Wallace and Mary Stegner.  Tuyển tập truyện ngắn nổi tiếng của Mỹ (Nhà xuất bản Dell Publishing Co., Inc., New York, NY, 1957).  Wallace and Mary Stegner chủ biên.
**
In Poe's essay "A Theory of the Short Story" he says that "a certain unique or single effect [should] be wrought out." But later in the essay Poe also says that the aim or purpose of the story should be truth. He writes, "Truth is often, and in very great degree, the aim of the tale. . . ."  Trong bài "Lý thuyết về truyện ngắn" Poe cho rằng nhà văn phải "tạo ra một hiệu ứng độc đáo duy nhất."  Sau đó, cũng trong bài ấy, ông nói mục đích của truyện ngắn phải là sự thật.  Ông viết, "Thường sự thật chính là mục tiêu của câu truyện, ở một mức độ rất cao...."
A single effect is a paradigm that Edgar Allan Poe created signifying that a story must produce one specific and consistent effect in the reader.
Hiệu ứng duy nhất, một mô thức do Edgar Allan Poe tạo ra, có nghĩa là truyện ngắn phải có một hiệu ứng cụ thể và nhất quán nơi người đọc.

***
Gift books, literary annuals or a keepsake were 19th-century books, often lavishly decorated, which collected essays, short fiction, and poetry. They were primarily published in the autumn, in time for the holiday season and were intended to be given away rather than read by the purchaser. Sách thuộc thế kỷ 19 ở Mỹ có nội dung về văn chương, được trang trí đẹp để tặng dịp cuối năm.

Những tiêu chuẩn này đã loại bỏ một số điểm thường thấy trong các lược sử và niên biểu đầy đủ về truyện ngắn bởi vì có một số truyện và khuynh hướng tuy được ái mộ vào thời đại chúng xuất hiện, đã bị mất dần độc giả vì thị hiếu thay đổi, và chúng trở nên không còn quan trọng nữa.  Fitz-James O’Brien, người dù đã khéo léo nhào nặn tính cách giả khoa học và hiện thực trong tác phẩm của Poe, cũng khó lòng đủ sức hấp dẫn người đọc ngay cả với truyện ngắn hay nhất của ông là “The Diamond Lens” (Kính Kim Cương), để được chọn.  Edward Everett Hale với tình cảm yêu nước lai láng trong truyện “The Man Without a Country” (Người Đàn Ông Không Tổ quốc), hoặc với xảo thuật vui nhộn qua truyện “My Double and How He Undid Me” (Người Giống Hệt Tôi và Cách Anh Ta Làm Không Còn Giống Tôi Nữa) dường như không hướng đến một điều gì hay biểu trưng một nét đặc thù nào của ông.  Frank S. Stockton, một nhà văn viết rất nhiều chuyện ngụ ngôn cho trẻ em, đã kích thích mạnh trí tưởng tượng của những người thuộc thế hệ ông qua truyện “The Lady, or the Tiger?” (Người Đàn Bà Hay Là Con Hổ?), một truyện ngắn đã có một vị trí hầu như cố định trong truyền thống truyện ngắn. Nhưng “The Lady, or the Tiger?” hoàn toàn không phải là một truyện ngắn hiện đại; chẳng qua nó chỉ là một tiểu thuyết ngắn --kiểu Ý, loại thường được Boccacio kể và đã được sửa đổi, mài dũa kiểu báo chí cho hay hơn.  Truyện “Marjorie Daw” rất được mến chuộng của Thomas Bailey Aldrich, một truyện ngắn được cho là đã thay đổi sáng tác văn học suốt một thập niên, giờ đây lại trở thành một kiểu sáng tác thời thượng, khá vui nhộn, nhưng không đào sâu vào nhân vật, không có bối cảnh phong phú hoặc chiều sâu tâm lý, không để lại “hiệu ứng” gì mà một người có thể đòi hỏi nơi một truyện ngắn thuộc truyền thống những truyện ngắn lớn.  Một kiểu đùa cợt thực tế, có văn hóa dưới dạng thức truyện ngắn, “Marjorie Daw” đã tránh né yếu tố khá tất yếu từng có trong các truyện Mỹ, một yếu tố đã được Hawthorne lần đầu tiên thêm vào.  Đó là việc đặt nặng vấn đề đạo đức và trí thức, mà Henry Seidel Canby từng gọi là “sức hấp dẫn đặc thù.” Ngay cả những khi khôi hài, một truyện ngắn Mỹ điển hình cũng đòi hỏi phải được nghiêm túc xem như phản ảnh cuộc đời, các cử chỉ, đạo đức của nhân vật hoặc ước nguyện của dân tộc.  Trong tuyển tập này, chúng tôi đã loại bỏ những truyện tuy có vẻ hay về kỹ xảo nhưng thiếu mất trọng lượng về nét đặc thù nói trên.
2
Vì những truyện trong tuyển tập dành cho đối tượng học sinh sinh viên, trong và ngoài lớp học, cũng như cho các độc giả nói chung, xin cho chúng tôi đánh bạo nói thật chi tiết về những truyện nổi bật, và nhắc lại những truyện nổi tiếng bằng cách khái lược qua truyền thống truyện ngắn mà chúng minh chứng.  Đối với loại truyện có các diễn biến nối kết nhau theo trình tự thời gian, mà “Rip Van Wrinkle” là một trong những ví dụ dễ thương, khôi hài, lịch sự nhất, Poe đã thay thế bằng một loại truyện tạo hiệu ứng, tức là truyện chỉ nhằm để lại một ấn tượng duy nhất đã được thai nghén trước, đạt được bằng các phương cách tiết kiệm và trực tiếp nhất, trong đó diễn biến truyện tập trung vào một đỉnh điểm, từ đầu đến cuối đều gợi lên nơi độc giả một cảm xúc như nhất, khiến những gì không thể xảy ra trở nên hợp lý qua các sự kiện sống động, cụ thể tuyệt hảo như trong truyện của Defoe, đồng thời cũng để lại ấn tượng gợi cảm phong phú có thể học được từ các nhà thơ lãng mạn.  Kỹ thuật Poe bắt đầu phát triển trong truyện “Metzengerstein” và đã định nghĩa rõ ràng trong bài bình duyệt của ông về tác phẩm “Twice Told Tales” (Những Truyện Được Kể Hai Lần) của Hawthorne mười năm sau đó, chủ yếu đã được tạo nên để làm cái khó tin thành ra có thể tin được.  Mặc dù thời gian đã không nương tay lắm đối với các loại hiệu ứng đặc thù nơi tác phẩm  của Poe, vốn liên quan nhất quán với loại truyện kinh dị và gay cấn theo kiểu văn học lãng mạn Đức và bao phủ bởi một màu đen tăm tối kiểu Gothic, phải nói rằng thể loại truyện ngắn có thể đã không phát triển như nó đã phát triển nếu không có những tính cách gay cấn sống động đòi hỏi những phương tiện biểu đạt sống động như thế.      
Poe nói rằng truyện kinh dị của ông “không phải về  nước Đức mà về tâm hồn,” nhưng đối với đa số độc giả hiệu ứng ông tạo ra có vẻ không gì hơn việc khiến họ phải rợn người.  Thực sự ông cũng không phải là một nhà tâm lý sâu sắc lắm; tính cách “điên loạn” trong tác phẩm của ông, một tính cách kỳ quặc không sai chạy thường thấy nơi các nhân vật của Poe, chỉ thấy trong văn chương sách vở chứ không phải từ quan sát đời thường.  Việc Poe có thói quen dùng kỹ xảo cứng ngắt khá lạnh lùng và không hiện thực, việc ông chỉ chuyên tập trung tạo hiệu ứng tâm lý, và hay giới hạn chủ đề vào loại truyện kinh dị và truyện “mang tính tư duy logic” đã khiến ngày nay độc giả của Poe phần đông là người trẻ tuổi.   Cái Poe gọi là truyện tư duy logic, vốn là cha đẻ trực tiếp của truyện trinh thám và hoàn chỉnh với nhân vật Watson, viên cảnh sát ngô nghê, vị thám tử nghiệp dư cực kỳ thông minh, và trò chơi thú vị về các dấu vết hiện trường giả và cách suy đoán tài tình, cũng sinh động như khi Poe tạo ra nó qua truyện “The Murders in the Rue Morgue” (Án Mạng Tại Nhà Xác Rue).  Khi nói rằng thể loại văn học này khiêm nhường hơn, chúng ta không nên đánh giá thấp tầm vóc quan trọng của Poe là người đã thổi những luồng gió mới cho nó. Truyện kinh dị của ông cũng là một thể loại văn học khiêm nhường tương tự như vậy –giống như truyện tư duy logic, truyện kinh dị của Poe biểu trưng việc dành hết sức tài năng lớn vào mục đích tương đối nhỏ.  Trước khi Poe có thể làm truyện kinh dị của mình thật sự là truyện kinh dị về tâm hồn, ông đáng lẽ đã phải biết nhiều tâm hồn hơn của chính ông –điều ông chẳng bao giờ làm.  Hiệu ứng cao nhất trong tác phẩm của Poe là gây ra sự sợ hãi phi lý về  việc bị giam trong phòng kín, như bản thân Poe đã từng sợ.
Nhưng dù hiệu ứng Poe tạo ra có hạn chế, kỹ thuật ông phát triển nhằm đạt được các hiệu ứng ấy lại vô hạn.  Việc tập trung vào một ấn tượng mãnh liệt duy nhất là một ngón nghề mà trong tay nhà văn khác có thể được dành trọn cho các mục đích khác, thường sâu xa hơn.  Dưới ngòi bút của Fitz-James O’Brien cả ý định lẫn kỹ thuật đều không thay đổi nhiều: “The Diamond Lens” (Kính Kim Cương) cho thấy một nhân vật chính bị điên, một kiểu giả khoa học, và một nỗ lực tương tự nhằm làm truyện như thật.  Ambrose Bierce tạo được hiệu ứng rùng rợn hơn, mặc dù kém đi vẻ Gothic so với Poe.  Nhưng nếu ta hướng thật xa về phía trước, hướng đến những truyện hiện đại như truyện “The Lottery” (Xổ Số) của Shirley Jackson, hoặc truyện “A Good Man Is Hard to Find” (Người Tốt Khó Tìm) của Flannery O’Connor, thì ta có thể nhận thấy những kỹ thuật mang tính thuyết phục tương tự được dùng để khiến độc gỉả chúng ta không thể không tin vào tình huống hoặc để tạo hiệu ứng rất khác truyện của Poe.
Ảnh hưởng của Poe rộng lớn đến nỗi chúng ta không thể nào không đánh giá nó thật cao: ông gần như ảnh hưởng tất cả các nhà văn viết truyện ngắn.  Ảnh hưởng của Poe trọn vẹn hoặc có thay đổi được minh chứng qua truyện “Silent Snow, Secret Snow” (Tuyết Im lặng, Tuyết Bí Mật) của Conrad Aiken –nhìn bề mặt truyện của ông giống truyện Poe ở chỗ nó ghi lại tiến trình hóa “điên” của một con người.  Nhưng hiệu ứng Aiken tạo nên mang tính người, không hề giả tạo; giọng văn của ông đầy cảm thông và từ bi, chứ không làm rợn người.  Giả như câu chuyện chỉ là một hồ sơ bệnh lý lâm sàng về một cậu bé rơi xuống bờ vực để trở thành kẻ mắc bệnh tâm thần phân liệt sống co rút không tiếp xúc ai, thì truyện ấy đã không khiến chúng ta xúc động như thế.  Nó gây xúc động vì nó thực sự nói về tâm hồn con người, điều mà truyện của Poe không nói được.
“The Fall of the House of Usher” (Tòa Nhà Usher Bị Sụp Đổ) đối với chúng ta có thể xem là tiêu biểu cho đỉnh cao tài năng của Poe.  Nó có tất cả các nét thêm thắt mang tính Gothic, gần như nhiều đến độ gây nhàm chán. Ấy vậy mà tòa biệt thự điêu tàn với những nhân vật bệnh hoạn thần kinh, những gì kỳ quặc mà người ta biết về nó, những ước thúc và nỗi lo âu sợ hãi trong biệt thự, những sự kiện kinh dị diễn ra chớp nhoáng ở đó có thể xem là nơi nương trú đích thực cho bản chất bị dằn vặt của Poe.  Về mặt thủ thuật, không dễ có truyện nào sánh bằng, nhất là hình ảnh lộn ngược đầy chết chóc của biệt thự định mệnh được in bóng xuống mặt hồ.
Cả truyện “The Fall of the House of Usher” (Tòa Nhà Usher Bị Sụp Đổ) của Poe lẫn truyện “Young Goodman Brown” (Chàng Goodman Brown Trẻ Tuổi) của Hawthorne đều được xây dựng trên một chuyến ra đi và trở về, đến nơi và khởi hành, cả hai đều đi từ ánh sáng vào bóng tối, rồi lại trở về ánh sáng, hay cái gì đó tương tự ánh sáng.  Nhưng trong khi cái tăm tối của Poe là sự tăm tối mang kịch tính của loại truyện kinh dị, Hawthorne tìm cách nói lên ý cùa mình về khu rừng tăm tối như sự tăm tối của tâm hồn, cả một khu rừng tội lỗi và xấu xa.  Việc chàng Goodman Brown trẻ hội nhập vào tội lỗi vốn có từ lâu của toàn thể loài người, việc chàng tin rằng đức hạnh chỉ là cái mặt nạ bề ngoài và mọi người đều có tội, rõ ràng cũng chẳng “hiện thực" gì hơn phần lớn truyện của Poe.  Nhưng chúng ta hãy quan sát xem thuật phù thủy này của Hawthorne đã được chuyển đổi dưới những cách thức khác như thế nào.  Hãy xem ông đã biến chàng Goodman Brown trẻ thành đại diện cho cái lạnh lùng ghét đời và buồn bã của Puritanism  (Thanh giáo) một cách hết sức tự nhiên, và xem ông đã biến cuộc mạo hiểm của chàng vào tà thuật phù thủy như kinh nghiệm của moị người trước sự cám dỗ và bản chất xấu xa, việc con người rơi xuống vùng vô thức của “con tim đen tối” ra sao.  Sự hủy diệt của chàng Brown trẻ thuộc kiểu khác so với điều chàng lo sợ, nhưng sự hủy diệt ấy lại hoàn chỉnh hơn nỗi sợ của chàng.  Xét về “lực hấp dẫn đặc thù” thì truyện này, nếu so với truyện của Poe, cũng như đá hoa cương (granite) so với gỗ thông. Nhà mổ xẻ tội ác, hành vi vô đạo đức và tâm hồn bệnh hoạn của miền New England (Hawthorne) biết rõ hơn và cảm nhận rõ hơn so với nhà ứng biến tài tình về những tâm tư bệnh hoạn của tiểu bang Virginia (Poe), và nét tăm tối kiểu Thanh giáo ở cuối truyện gần với thực tại con người hơn tính cách Gothic trong truyện của Poe nhiều.
Tuy nhiên, so với Poe, tài viết văn của Hawthorne không thể hoàn hảo bằng.  Poe chẳng bao giờ để câu truyện cho đến lúc Brown trở về đã thật chặt chẽ, tập trung, hấp dẫn, đầy hình ảnh sống động, lại kết thúc một cách nhạt nhẽo, với phần phụ lục khiến người đọc thất vọng.
Henry Seidel Canby, với bài viết của mình tựa đề “The Short Story in English”  (Truyện Ngắn Tiếng Anh) là một trong số rất ít nghiên cứu nghiêm túc và có giá trị lâu dài về thể loại truyện ngắn, từ lâu đã nêu lên một đóng góp rất quan trọng của Hawthorne cho tương lai truyện ngắn, cũng quan trọng như việc ông rất mực quan tâm đến vấn đề đạo đức và chiều sâu mang tính biểu tượng trong truyện của ông.  Đó là việc Hawthorne không làm truyện của mình có những diễn biến nối kết nhau một cách tuyệt vời kiểu Irving, cũng không tạo hiệu ứng gượng gạo kiểu Poe, mà chỉ phơi bày và khảo sát các tình huống.  Trong toàn bộ quá trình phát triển, không chỉ riêng ở Mỹ, truyện ngắn đặc trưng đã xoay lưng lại với cốt chuyện (plot), và có khuynh hướng trở nên cái mà Henry James gọi là “tình huống được hé lộ” (“situation revealed”), chứ không còn thiên nhiều về việc giải quyết một tình huống phức tạp nữa.  Loại truyện như thế nhất thiết sẽ ít tình tiết sôi động hơn (tĩnh hơn), nhưng lại có thể làm phát triển tính cách các nhân vật và phân tích các động cơ tốt hơn, và làm người ta chú ý nhiều hơn đến giọng văn, không gian và chủ đề truyện.  Thường loại truyện như thế sẽ biến quá trình viết văn thành một hành vi tìm hiểu, khám phá về tri thức, đạo đức và tình cảm.  Thể loại truyện không còn là một bó thúc quy ước mà là một sự khám phá, và kết thúc truyện ít mang vẻ “tạo hiệu ứng,” mà là một sự soi sáng.
Theo khuôn mẫu ấy, chúng ta dễ nhận ra cái có thể là khuynh hướng đặc thù nhất của truyện ngắn hiện đại.  Hawthorne đã khởi đầu cái mà James, Chekhov, Joyce, Masfield, và những nhà văn hiện đại sau này sẽ phát triển thêm hơn một thế kỷ.  Nhưng từ Hawthorne cho đến James, sự cách biệt hiện giờ vẫn còn nhiều.  Chỉ có nhà văn Melville cô đơn, khó tính và buồn bã –người mà chủ yếu không phải là một nhà văn chuyên viết truyện ngắn và chắc chắn ông cũng không ảnh hưởng gì đến truyền thống viết truyện ngắn của thế hệ ông hay bất cứ thế hệ nào khác.  Một số truyện trong tập Piazza Tales của ông đã được đăng trong tạp chí Putnam’s Magazine từ năm 1853 đến năm 1855 sau thất bại của hai quyển tiểu thuyết Moby Dick (Săn Cá Voi) và Pierre đã khiến ông cố gắng thử viết truyện cho các tạp chí để kiếm tiền.  Có lẽ tất cả đều  là những câu chuyện ngắn theo định nghĩa của Poe; ít nhất chúng ta có thể ngồi xuống một lần là đọc xong chúng ngay.  Tuy nhiên có một số truyện là tiểu thuyết ngắn theo tiêu chuẩn hiện thời, và quả thực chúng từng được tập hợp với một số truyện khác dưới tựa đề “những tiểu thuyết ngắn.” Truyện "Bartleby và Scrivener" /“Bartleby and Scrivener” minh chứng khá tốt giống như bất cứ các truyện dài hơn nó về sức nặng đạo đức và tri thức mà nó hàm chứa, về việc khảo sát chặt chẽ một tình huống, và cái nhìn sâu vào bên trong mang tính tâm lý và biểu tượng, điều đã cho phép chúng ta xem nhà văn viết truyện ngắn Melville như một cây cầu nối vững chắc giữa Hawthorne và James.
Henry James bắt đầu sự nghiệp của mình những năm cuối của thập niên 1860, lúc đó sự nghiệp của Hawthorne đã khép lại, còn Melville im hơi lặng tiếng với việc làm trong nhà quan thuế.  James đã viết truyện trọn nửa thế kỷ cho đến khi ông qua đời năm 1916; và những đóng góp của ông cho nghệ thuật văn xuôi hư cấu –dù là tiểu thuyết, truyện ngắn, hay “blessed nouvelle” (loại truyện ngắn dài hơn nhiều so với các truyện ngắn khác), đã quá nổi tiếng nên ở đây không cần tóm lược thêm nhiều nữa. Ông không phải là nhà văn có những đột phá mới, mà là nhà văn làm thể loại truyện ngắn bóng bảy thêm.  Ông đã lấy loại chuyện nghiêm túc nặng về luân lý và đạo đức nói về một tình huống của Hawthorne, và đã tinh chuyên nó đến độ ông thực sự biến mình thành “nhà sử gia của lương tâm trong sáng” như Conrad đã gọi ông.  Henry Janes giữ lại phương pháp tập trung vào một điểm duy nhất trong truyện của Poe, vất bỏ cỗ máy Gothic nặng nề và chủ đề gay cấn của nó, và áp dụng phương pháp ấy vào các tình huống từ kinh nghiệm quan sát được. Điều ông có thể làm với một tình huống mà ông muốn “hé lộ” cho người đọc thấy được minh chứng qua truyện “Madonna of the Future” (Madonna của tương lai), và truyện “The Beast of the Jungle” (Con thú dữ trong rừng già), những truyện chứa đủ các ưu điểm của Poe, cộng thêm nội quán tâm lý vô cùng tinh vi, bén nhạy.  
Là một nhà văn điêu luyện tài ba, nhưng quan trọng hơn hết là James đã thử nghiệm về giới hạn của quan điểm.  Ông loi b vai tr nhà văn vốn l người biết tất c về câu truyện, và thay thế vo đó người kể chuyện, “danh mc trong cc hồ sơ,” “cơ quan tnh bo,” cùng với sự hỗ trợ của những người bn thân của người kể và cc mối liên hệ khc.  Ông đưa đẩy câu chuyện vo cc lối thot ngy cng nhỏ dần, cho đến khi, giống như nước vt mạnh ra khi miệng vi, thay v được cho chy tự do từ từ trong ống ra, câu truyện đạt đến mức độ tập trung và có sức mạnh đặc biệt.  Ông đã không mệt mi đào sâu vo những k thuật viết văn rất kh, rồi cố gắng tm cch thoát ra.  Phần lớn những k xảo do ông sng to ra nhắm vào cc phương cch hợp l của việc sử dụng chất liệu để liên lc trao đổi hay mô t, để xây dựng nên câu chuyện với kiểu bnh phẩm, m ông không thể lm được khi từ bỏ vai tr hiểu biết tất c ca nhà văn về câu chuyện.  Giống như một người sau khi đã lm xo trộn sự quân bình ca thiên nhiên bằng cch giết chết loi sói  hoang Bắc Mỹ (coyote), phi đối mặt với nn thhoang sinh sn qu nhiều; rồi chẳng bao lâu sau khi  kiểm sot được th hoang, anh ta li thấy mình phi đương đầu với tnh trng c hoang mọc trn lan.  Bằng cch sng to ci mới thường xuyên, ông luôn c cách đi trước một bước kết quả ca những gì chính ông đã sáng to.
Kết quả l những đóng gp thật to lớn ca James về mặt k thuật viết văn.  Nhưng cách ông tô điểm k xảo ấy với vấn đề đạo đức, với tính cch hiếu k không bao giờ tha mn của mình, và với quan điểm ông xem tiểu thuyết văn xuôi như một nghệ thuật cao c l cng quan trng không km.  Mặc d Someset Maugham từng gi ông l người c ảnh hưởng tệ hại nhất c thể c đối với văn xuôi, phần lớn tiểu thuyết hiện đại chịu nh hưởg trực tiếp từ James.  Loại truyện ni về tâm trng, kho st thức con người, qua việc khm ph một tnh huống tâm l, đã học được nơi ông rất nhiều.  D ảnh hưởng tốt hay xấu, ông vẫn l một trong những người gip đem văn chương tiểu thuyết từ ngoài đường phố vo sâu trong tâm hồn con người.  Đôi khi ông chia ch phân tch qu chi li; đôi khi ông viết văn xuôi như thể ông tra tấn n.  Một trong những truyện ngắn nổi tiếng nhất ca James, “The Real Thing” (Vật thật), được đưa vo tuyển tập này v n chứa đựng những nt tuyệt hay ca James mà không c hai nt khiếm khuyết nói trên.
Đóng g
p trực tiếp về mặt lý luận v kỹ thuật viết truyện ngắn nhiều hơn c James l phong tro mang màu sắc địa phương, một phong trào thống lnh văn xuôi Mỹ từ sau cuộc Nội Chiến cho đến đầu thế kỷ 20.  Chnh tính cách địa phương, nhất l với tc gi Bret Harte, đã lm truyện ngắn trở nên được ưa chuộng, v khiến nó được công nhận như một thể loi riêng.  Nó cũng khiến truyện ngắn c một tầm vóc khá rộng lớn về đề ti n đề cập.
Ch
yếu l một cuộc hnh trnh về nhiều hướng nhằm khm ph dân tộc, phong trào mang tính địa phương chí th mô t những cnh ngon mục, sống động.  Với những nh văn lng mạn hơn, “nhiều sắc thái” hơn của phong tro ny, truyện ngắn có thể là một thí dụ về tranh v phong cảnh hoặc về phong tục và địa phương học bằng văn xuôi.  Thỉnh thoảng những truyện về dân lai Âu châu và da đen Creole vùng Caribbean của George Washington Cable, giống như truyện về tiểu bang Virginia của Thomas Nelson Page hoặc truyện nói về miền núi ở tiểu bang Georgia của Joel Chandler Harris, hoặc ngay cả những nét phát họa tinh tế của Celia Thaxter về quần đảo Shoals, cũng thật gần với phong thái từ tốn, thong dong và hàm ý giống như huyền thoại của Washington Irving.  Nhưng với Bret Harte, mặc dù ông đã chọn phong cách phóng túng lãng mạn khi viết về xã hội những người đi tìm mỏ vàng, truyện mang màu sắc địa phương lại có người kể chuyện mà đối với người đó câu chuyện mới quan trọng, và kỹ xảo viết văn cũng chỉ quan trọng như câu chuyện mà thôi.
Co
́ rất ít chấn động văn học lớn như chấn động xảy ra sau khi truyện “The Luck of Roaring Camp” (Cái may của trại đào mỏ vàng Roaring Camp) in trong tờ Nguyệt san Overland hồ́i tháng Tám 1868.  Bên cạnh những phê phán về mặt đạo đức và thị hiếu của tác giả, Harte đã trải nghiệm việc ông trở nên nổi tiếng thật nhanh đến độ phải chóng mặt, biết bao nhiêu người bắt chước kiểu sáng tác của ông làm ông cảm thấy tự ngã được thổi phồng, và ông còn được phó chủ bút tờ Atlantic khích lệ bằng lời mời cộng tác với lương thật hậu hỉ.  Ông còn nhiều chuyện nữa cùng chủ đề này để viết, và lúc đầu chúng cũng hay không kém truyện “The Luck of Roaring Camp.
Không hẳn đơn phương độc mã, mà với sự giúp đỡ của những người bắt chước cách viết của ông ở các vùng khác, ông đã khẳng định thế đứng cho truyện ngắn, nối kết nó với đời sống và chất liệu của Mỹ.  Ông đã trở nên nổi tiếng đến độ năm 1899, trong một bài nghị luận về sự trỗi dậy của truyện ngắn, ông một mực khẳng định rằng ông không phải là người sáng tạo ra thể loại ấy.  Tất cả những gì ông làm được chỉ là áp dụng những phương pháp vốn đã được nhiều người biết đến vào đời sống nhiều màu nhiều vẻ, hung hăng, và độc đáo ở các láng trại của những người Mỹ đi tìm mỏ vàng.  Để làm nổi bật sự tương phản vốn đã rõ nét, Harte đã mượn xảo thuật viết của Dickens khi tạo ra các nhân vật có tính cách đầy mâu thuẫn ngay nơi một con người, như tả kẻ bất lương gian hùng với gương mặt thánh thiện như trong tranh Raphael, kẻ cờ bạc đĩ điếm nhưng lại có trái tim dịu dàng và một lương tri nhạy cảm trước sự đau khổ của người khác.  Những người đánh xe ngựa mắt đầy lo âu tuyệt vọng, nhưng lại đáng tin cậy, những kẻ bướng bỉnh lì lợm và những phu mỏ thô kệch (như Tennessee và bạn của ông) nhưng lại thật trung thành và chan chứa tình người.
Dưới ngòi bút khéo léo của Bret Harte, truyện ngắn đã trở thành một thể loại văn chương đặc trưng. Cho đến lúc đó vẫn chưa có tên gọi hẳn hoi mà chỉ là “truyện kể” hoặc “bút ký,” đại loại như thế, truyện ngắn đã chính thức được rửa tội vào năm 1885 với bài nghị luận mang tính học thuật mạnh mẽ của Giáo sư Brander Matthews với tựa đề “The Philosophy of the Short Story” (Triết lý truyện ngắn), qua đó ông khẳng định lại các nguyên tắc về tính tập trung và hiệu ứng duy nhất của Poe, nhìn nhận ảnh hưởng lớn lao của Harte, và xác quyết nét khác biệt rõ ràng của thể loại truyện ngắn.  Được viết bởi các nhà văn Mỹ nổi tiếng nhất, được đăng trong tất cả các tạp chí, với số độc giả lên đến hàng vạn, và được các giáo sư tại Harvard và Columbia trân trọng, truyện ngắn cuối cùng đã đến với người đọc.  Trước đó Henry James đã chứng tỏ cho mọi ngưới thấy những khả năng truyện ngắn có thể xây dựng nhân vật và tình huống vượt xa những nét tương phản sơ sài của Harte, và Mary Wilkins Freeman và Hamlin Garland đã đưa phong trào viết về màu sắc địa phương vào các hướng sâu hơn và ít giả tạo hơn.  Chỉ vài năm sau, Stephen Crane, với sự  hỗ trợ của Kipling, lẽ ra đã có thể cung cấp cho truyện ngắn một công cụ thuộc trường phái ấn tượng sinh động hơn nhiều mà trước đây tiểu thuyết chưa hề có, ngoại trừ trong các truyện ngắn của nhà văn Nga Chekhov, người mà cho đến lúc đó chưa được độc giả Mỹ và Anh biết đến.  
Mà thật ra không phải mọi nhà văn đều có thể viết truyện như dòng tiểu thuyết hư cấu 60 năm qua đã định hình nó.  William Dean Howells chưa hề viết được một truyện hay; ông đã học được quá nhiều từ Addison và Steele*, và Jane Austen** nên khó có thể gò ép thay đổi cách viết của mình để phù hợp với thể loại mới.  Tương tự, Mark Twain cũng không bao giờ viết được một truyện ngắn hay.  Các thể loại duy nhất mà ông có thể viết thật tốt là bút ký về miền biên cương mang tính hài hước với các nguyên tắc viết đã được ông tóm lược trong bài “How to Tell a Story” (Cách thức kể chuyện), và loại truyện ngụ ngôn là thể loại ông viết tốt nhất.  
---
*Joseph Addison (1672 –1719), an English playwright, essayist, poet, and politician. Kịch tác gia, nhà viết nghị luận, nhà thơ và chính khách người Anh.
Richard Steele (1672 –1729), an Irish writer, playwright, and politician.Nhà văn, kịch tác gia, và chính khách người  Ái Nhĩ Lan. 
They founded The Spectator Magazine.Hai người cùng sáng lập tờ The Spectator Magazine.
**Jane Austen (1775 – 1817), English novelist.  Nữ văn sĩ Anh.

Truyện về ác thú vốn là loại tiểu thuyết xưa nhất có lẽ chưa bao giờ hoàn toàn vắng mặt trong các sinh hoạt văn hóa người Mỹ mang từ Âu châu qua.  Ở Mỹ nó đã được thổi một luồng sinh khí mới rất mạnh qua các chuyện thú vật của người da đen, xuất hiện như một phần của loại truyện nặng màu sắc địa phương.  Mặc dù loạt truyện “Uncle Remus” của Harris, giống như truyện “Bluejay Yarn,” không phải là truyện ngắn theo cách định nghĩa của Matthews hoặc bất kỳ một định nghĩa nào khác, chúng lại xuất sắc theo cách của chúng, và đã ảnh hưởng truyện ngắn thực bằng nét hài hước và trí khôn ngoan sáng suốt.  Bàn về những năm 1880 đến những năm  1940 v 1950, chúng ta hãy hướng nhìn về phía trước đến những tranh hoạt họa của Walt Disney và truyện của James Thurber, đặc biệt là truyện “The Catbird Seat” của Thurber trong tuyển tập này.  Nó nói về con người, không phải về thú vật; nhưng nó chắc chắn là người anh tay trái của loại truyện ngụ ngôn chính thống, một biến thể giống như truyện ngắn của loạt truyện Fables of Our Time (Ngụ Ngôn Thời Đại Chúng Ta) là truyện đã kết hợp Thurber với Harris và Twain, cũng như trước đây truyện ngụ ngôn đã kết hợp La Fountain với Aesop.  Cốt truyện là một loạt các màn lừa gạt nhau đầy tính hài hước được sắp xếp theo trình tự thời gian, và chủ đề của nó vốn là chủ đề đã có trong thần thoại từ xa xưa: cái yếu thắng cái mạnh.  Nếu Ông Martin sắm vai Chú Thỏ, thì Bà Barrows sẽ đóng lốt Lão Cáo.

3
Khi viết bài nghiên cứu hữu ích về truyện ngắn năm 1909, Canby biết rvai trò quan trng của Hawthorne, Poe, James và Harte cùng những nhà văn viết truyện ngắn mang màu sắc địa phương.  Ông bỏ qua không nói gì đến tầm quan trọng của truyện ngụ ngôn về thú dữ với một lý do nào đó,  vì cho đến lúc ấy, Disney va Thurber đều chưa xuất hiện để làm cường điệu thêm sức sống lâu bền của loại truyện ấy.  Điều ngạc nhiên hơn là Canby hoàn toàn không nhắc gì đến Stephen Crane, người đã khuất bóng chín năm tính đến năm 1909, và cũng là người mà vào những năm 1890, qua các truyện ngắn của mình, đã vinh dự được tôn xưng chẳng những là một trong số ít nhà văn viết truyện ngắn tài ba, mà còn là người đâù tiên viết truyện ngắn hiện đại.
Crane là một trong số các nhà văn mà cho đến khi qua đời, có quá ít truyện ngắn hay nhất được đưa vào hợp tuyển.  Mặc dù có sức sáng tác phi thường, ông sống qúa vội vàng và chết qúa trẻ, đến nỗi phần lớn những gì ông viết chắc chắn đều có tỳ vết.  Trong tất cả các truyện ông viết, chỉ có truyện “The Open Boat” (Con Thuyền Mở),  “The Blue Hotel” (Khách sạn màu xanh da trời) và truyện “The Bride Comes to Yellow Sky” (Cô dâu đi đến Bầu Trời Vàng) là không có nhược hay khuyết điểm, và người soạn tuyển tập phải chọn trong số các truyện này.  Chọn một truyện trong số ba truyện nói trên cũng là phục vụ cho người đọc tốt lắm rồi, vì cả ba truyện đều tuyệt hảo cả. Còn nếu loại bỏ hẳn tên Crane ra, hoặc giới thiệu ông bằng một truyện ngắn khác không tuyệt hảo như thế thì mới thật có lỗi với độc giả, và mới làm sai lệch hẳn truyền thống truyện ngắn.
Lý do là Crane có mắt tạo hình ảnh thật xuất chúng (mà theo Bliss Perry là tố chất quan trọng hàng đầu của nhà viết truyện ngắn). Trong truyện ngắn của ông, tất cả đều gợi hình một cách mạnh mẽ, sinh động rõ ràng: hình ảnh chói lòe trên trang giấy như các sự vật sáng rực qua tia chớp trên trời.  Tốc độ văn xuôi của ông khiến chúng ta thấy hồi hộp, căng thẳng như chúng ta thường nghĩ về tính cách đặc thù của nước Mỹ hiện đại.  Mặc dù Crane không bỏ được việc dùng ẩn dụ (metaphor) trong khi Hemingway tránh dùng nó, không một nhà văn hiện đại nào có giọng văn gần với Crane bằng Hemingway.  Sức mạnh gợi cảm trong truyện ngắn của Crane thật kiệt xuất, và người ta không thể nào tập trung chuyên chú cao hơn mức Crane đạt được trong truyện “The Open Boat” (Chiếc thuyền không mui), với bối cảnh không gian không vượt quá mạn thuyền, và thời gian chỉ kéo dài trong một chuyến đi; diễn tiến câu  truyện liên tục từ câu mở đầu đẩy người đọc vào câu chuyện theo kiểu mở đầu được ca ngợi hợp lý nhất: “Bộ không ai trong số chúng nó biết được bầu trời màu gì à?”       
Giả sử Crane chỉ có cách tạo ấn tượng sinh động để đóng góp cho truyện ngắn, ông cũng đã nổi tiếng trong lịch sử truyện ngắn rồi.  Nhưng ông còn có một tâm hồn đồng điệu với một thể xác tràn đầy hình ảnh và huyền thọai, cái bạn có thể gọi là ký ức về chủng tộc hoặc sự kế thừa văn hóa hay một tên gọi nào khác cũng được,  chính cái đó đã cho phép óc quan sát sự vật bên ngoài trong sáng nhất của ông thường nói lên hết sức mạnh mẽ một cái gì đó sâu sắc hơn.  Có vẻ như ông tình cờ thành một nhà văn biểu tượng, đôi lúc có thể là vô ý thức.  Ông không bao giờ gây ấn tượng cho người đọc thấy ông viết cốt để tạo chiều sâu, giống như Hawthorne cố làm.  Ông vấp ngã, trầy trật với ý nghĩa ông muốn diễn bày; chúng ngoi dậy từ nơi mảnh đất ông cày xới như những viên đá bị băng giá cào bới lên.  Theo phong cách của ông, ông là nhà đơn giản vĩ đại; những nhân vật của Crane gần như thường tiếp cận một cách siêu thực với không gian và cõi vĩnh hằng cùng vũ trụ lạnh lùng.  Nhưng nếu ông có một vị trí nào đó trong văn chương, thì vị trí của một người đơn giản như ông hẳn phải thuộc về thể loại truyện ngắn.  Phong cách Bohemian và khắc khổ của Crane, lối mai mỉa thường thấy trong truyện của ông, tốc độ gây hồi hộp và những gợi ý về chiều sâu tâm lý khiến ông trở thành nhà văn để lại ấn tượng đặc biệt nơi người đọc hiện đại.  Nếu chính ông không ảnh hưởng tiến trình phát triển truyện ngắn chỉ một lần, thì ông cũng phản ảnh được một sự thay đổi về tính cách, giọng văn, và kỹ thuật viết vốn đã chớm khơi dậy từ những năm 1890, rồi bị gián đoạn bởi sự trỗi dậy của khuynh hướng lãng mạn ướt át hồi đầu những năm 1990 và qua Đệ Nhất thế chiến, một sự thay đổi mà sau này trở thành đặc thù của văn hiện đại.  
Giữa cái chết của Crane năm 1900 và sự đột phá bắt đầu với  tác phẩm Winesburg, Ohio của Sherwood Anderson năm 1919 chỉ có ba nhân vật đáng để chúng ta  quan tâm chú ý đến.  Một là Edith Wharton, người tiếp tục truyền thống của James.  Cho đến lúc bà không còn được độc giả mến chuộng nữa sau năm 1917, bà vẫn tiếp tục truyền thống ấy một cách nghiêm túc, rõ ràng, và còn làm rạng danh thêm cho James qua cảm thụ về thể loại truyện ngắn, đôi khi cảm thụ một cách còn trực tiếp hơn cả James nữa.  Truyện “Roman Fever” (Cơn sốt La Mã), qua cách xử lý chủ đề “phổ biến” quen thuộc với sự tự chế và kiểm soát, là một trong những truyện ngắn hay nhất của bà mặc dù nó cũng nằm trong số những truyện cuối cùng bà viết.  Những tác phẩm đặc trưng nhất của bà lại quá dài không thể xếp vào tuyển tập truyện ngắn này được, đó là các tiểu thuyết ngắn như Ethan Frome,  Bungey Sisters (Chị em nhà Bungey), và The Old Maid (Người tớ gái già).  Đây là  những truyện đầy thương tâm và để lại ấn tượng sâu sắc về những người bị đời sống trói buộc.  Ít nhà văn Mỹ nào, kể cả nam lẫn nữ, lại thông minh và có ngòi bút khéo léo như bà. 
Trong số hai nhà văn viết truyện ngắn còn lại của thời kỳ trước thế chiến thứ nhất, William Sydney Porter (O. Henry) là người viết chuyện cho các tạp chí được nhiều người mến mộ và có nhiều tài năng hơn ông tự nhận đầy đủ về mình.  Trong bất cứ truyện nào của ông, tính nhạy bén và tài sử dụng ngôn ngữ và nhân vật cũng trội hơn nét nghiêm trang hấp dẫn.  Trong rất nhiều truyện ngắn của ông đều có bóng dáng của kẻ lừa gạt khôn khéo.  Truyện “A Municipal Report” (Bản tường trình của thành phố) mà chúng tôi cho in trong tập này, là một trong số ít truyện ông tránh được lỗi viết vội vàng, và thói quen hay sử dụng phong cách rối rắm khó hiểu, để thật sự sống theo nguyên tắc của mình.
Người cuối cùng trong số ba người là Wilbur Daniel Steele, nhà văn mà đến năm 1957 vẫn còn sống và sáng tác.  Không dễ xếp loại ông, cũng không đồng điệu với các thị hiếu và xu hướng thời đại, ông chưa hẳn là nhà văn đúc kết lại ba thế hệ phát triển truyện ngắn, vì những truyện ngắn hay nhất của ông vẫn còn giữ phong cách nhàn nhã từ tốn và cốt truyện phức tạp của thời truyện ngắn thời kỳ đầu (nhiều truyện được chia thành hồi hoặc thành chương) thay vì được gom lại trong một diễn tiến duy nhất liên tục và căng thẳng.  Đồng thời để phục vụ mục đích của mình, Steele cũng áp dụng tính hiếu kỳ về tâm lý (vốn điển hình cho truyện của James), ý thức rõ về địa điểm xảy ra câu chuyện mà phong trào viết về bản sắc địa phương đã trau luyện cho ông, và trường phái ấn tượng sáng chói vốn là dấu son lớn của Crane.  Trừ Edith Wharton ra, ông là nhà viết truyện ngắn có tầm cỡ của Mỹ trước và trong thời thế chiến thứ nhất.  Khi cơn hạn hán kéo dài đã qua đi, và những hứa hẹn của những năm 1890 đã được gìn giữ đúng cách, mọi việc đến rất nhanh, và truyện ngắn của Mỹ, cùng với các thể loại nghệ thuật khác, sẽ bùng nổ thành cái mà lịch sử có thể gọi là thời kỳ huy hoàng nhất.
Trong tác phẩm Memoirs, Sherwood Anderson làm chứng nhân cho sự dễ dàng và thóat thai gần như kỳ diệu  mà theo đó ông đã viết tập truyện Winesburg , Ohio –tại một căn phòng ở Chicago khi ông  tập trung dồn hết sức để sáng tác, có khi viết đến hai, ba chuyện trong vòng một tuần. Nếu lời kể của ông về việc sáng tác là những truyện ấy là thật, thì nó cũng sánh ngang với những sáng tác nở rộ trong thế kỷ 20.  Tập truyện ngắn Winesburg  cũng nói lên tiếng nói của thế kỷ 20 khi chúng nổi loạn chống lại ảnh hưởng dây dưa, khuynh hướng đè nén của giai cấp trung lưu, lòng mộ đạo của ngươì vùng Midwest, thói giả đạo đức kiểu Thanh giáo,  sự hạn hẹp của xóm làng  --tất cả những thứ đã kìm hãm, giới hạn  “nếp sống thực trọn vẹn” mà Anderson và cả thế hệ của ông khát khao.
Nếu xét từng truyện một thì các truyện trong Winesburg , Ohio không tiêu biểu cho tác phẩm hay nhất và phong phú nhất của Anderson, và chúng ta phải thừa nhận điều ấy bằng cách chọn một truyện ngắn từ một tác phẩm khác là The Triumph of the Egg (Sự Chiến Thắng Của Qủa Trứng).  Nhưng xét chung thì cả hai tác phẩm đều rất ấn tượng và đều được xem là quan trọng hàng đầu trong các tác phẩm của Sherwood Anderson.  Những truyện ấy mang tính cách tân không chỉ vì bất chấp khuôn mẫu đạo đức thông thường.  Sự phản đối mãnh liệt những truyện ấy gợi lên thậm chí có thể phần nào mang tính thẩm mỹ kín đáo, vì xét theo tiêu chuẩn quy ước thì chúng không hẳn là truyện ngắn, ngay bạn của Anderson, Floyd Dell, Mencken, và những nhà điểm sách cũng nói như vậy.  Chúng là những mô tả ngắn về các mảnh đời bị chôn kín, là sự thoi thóp của các khát vọng bị dồn nén, là nét phác họa về các nhân vật bị qụy ngã trong cách hành xử kiểu bộ lạc thôn xóm, là những ghi nhận chớp nhóang về nỗi dằn vặt đằng sau tấm màn che được kéo xuống (và thỉnh thỏang được vén lên).  Chúng không chỉ không có cốt truyện hẳn hoi, chúng còn không sử dụng cả cách gây ấn tượng gợi cảm mà cả Crane lẫn Steele từng dùng để tạo dấu ấn chỉ qua hình ảnh sống động.  Những truyện này của Anderson diễn ra lặng lẽ, như sự vật trong đêm tối.  Cho đến nay những độc giả ngưỡng mộ nồng hậu truyện của ông cũng không thể nói rõ chúng ảnh hưởng đến họ như thế nào.  Văn phong của ông đơn điệu, ông sử dụng phương pháp kể chuyện hơn là tạo kịch tính.  Vậy mà các nhân vật trong Winesburg nhìn có vẻ như người mang nỗi xấu hổ khủng khiếp của kẻ bị bắt gặp đang vướng vào một chuyện riêng tư gì đó không nói được.  Những tình cảm bị dồn nén trong đời họ tuôn trào như những tiếng rên khóc, khiến người ta chú ý và thương cảm, trong khi những nhân vật được khéo dựng lên và điều khiển lại không tạo được nơi người đọc.  Rõ ràng ở đây ta thấy Anderson chịu ảnh hưởng mạnh của Chekhov: Chekhov là một trong những nhà văn mới và thú vị đã làm choáng ngợp tâm tư Anderson, và cũng không phải hoàn toàn vô lý khi một nhà điểm truyện sau này gọi Anderson là “Chekhov tuổi dậy thì.”  Có thể nói một cách chính xác rằng chính tính đồng điệu mạnh mẽ với Chekhov này đã làm tập truyện ngắn Winesburg , Ohio trở thành nổi tiếng—William Faukner nói nó là sáng tác nổi tiếng nhất của Anderson.  Chúng tôi đã chọn “Unlighted Lamps” (Những ngọn đèn mù/không được thắp sáng) vì, ngoài chủ đề thất vọng, mất mát, khát khao và uổng phí của kiếp con người vốn là linh hồn của tập Winesburg,  nó còn chứa đựng bối cảnh phong phú về khu hội chợ  trong quận hạt và bãi đua ngựa thường thấy trong các truyện khác (không thuộc tập Winesburg) của ông.  Chỉ riêng truyện này cũng đủ để đại diện, và là đại diện tốt, cho nhà văn Anderson.    

Sau Anderson một trận triều dâng vĩ đại đã đến với truyện ngắn Mỹ. Hai trong số những tiểu thuyết gia chính của thế kỷ 20, Theodore Dreiser và Sinclair Lewis, lại không bao giờ thành công với truyện ngắn, nhưng chúng ta hãy xét đến các nhà văn nổi tiếng về thể loại này như Fitzgerald, Hemingway, Faulkner, Katherine Anne Porter, Steele, Lardner, và thêm vào đó là Edith Wharton, Willa Cather và Ellen Glasgow, những người vẫn đều đặn sáng tác, dù tài năng chưa rực sáng bằng.  Chỉ riêng thể loại truyện ngắn những năm 1920 cũng đã đáng kể rồi.  Hỗ trợ cho những nhà văn nổi tiếng, vây quanh họ như những miếng gỗ bào dùng để đệm chặt một cái hộp, là một đội ngũ nhà văn tuy không nổi tiếng bằng nhưng rất đông đảo và đầy tài năng  khiến chúng ta phải kinh ngạc, mà từ tác phẩm của họ và để cạnh tranh với họ, những cây bút xuất sắc đã nở rộ.  Bạn không thể mài rìu trên một bánh xe làm bằng phó mát; bạn cũng không thể đào tạo được những nhà văn vĩ đại nếu không có áp lực của một dàn tài năng vững vàng cạnh tranh với nhau.  Chính từ những nhà văn đứng hàng thứ hai cũng như từ những nhà văn nổi tiếng ấy mà truyện ngắn có được chất lượng tốt như thế.  
Chắc chắn những nhà văn lớn đã làm họ trở nên nổi tiếng.  Từ những truyện đầu tay của mình dù khi gửi đăng bị một số chủ bút từ chối vì chúng chỉ là ký sự ngắn,  Hemingway đã để ấn tượng sâu đậm nơi những người biết đến ông như một người rõ ràng là rất đặc biệt.  Những tác phẩm đầu tay của ông,  Three Stories and Ten Poems (Ba Câu Truyện và Mười Bài Thơ) va In Our Time (Thời của Chúng Ta) chỉ là cái để thử trước khi cái thực sự xuất hiện; ấy vậy mà ai ai cũng đã cảm thấy một tài năng vĩ đại sẽ xuất hiện như Edmund Wilson đã xác chứng trong bài bình duyệt của ông đăng trong The Dial *số tháng 10, 1924.  Như William Faulkner đã nói, có lẽ Hemingway đã sớm khám phá điều ông có thể làm, và đã tiếp tục đeo đuổi nó, nhưng đó chính là nhược điểm của ông: ông thiếu táo bạo.  Mặt khác, đa số độc giả đều thấy  nhiều dấu hiệu tiến bộ và phát triển từ truyện “Up in Michigan” và các bài viết ngắn đầu tay đăng trong In Our Time đến The Snows of Kilimanjaro (Tuyết Trên Đỉnh Kilimanjaro), hoặc The Old Man and the Sea (Ngư Ông và Biển Cả).  Hòa quyện vào những thay đổi này là bằng chứng cho thấy Hemingway, giống như Chekhov và James, càng ngày càng mài dũa bớt những ước thúc giả tạo của truyện ngắn, và dần dần tiến gần đến loại “tiểu thuyết ngắn được ban ân huệ” của James.  Những truyện đầu tay của Hemingway là các bài viết ngắn không đến một trang; còn truyện cuối cùng của ông, dù cũng thuộc thể loại truyện ngắn, lại dài như một quyển sách nhỏ.  Đó là một quãng đường dài từ những gì ông viết khi còn là một phóng viên trẻ ở Paris và học cách “bắt đầu bằng những điều đơn giản nhất.”
Mọi khảo lược về truyện ngắn Mỹ đều không thể bỏ qua phần luận bàn về ảnh hưởng to lớn của đặc điểm cô đọng và tính khách quan của Hemingway, cũng như hư vô chủ nghĩa đầy tính triết học trong giai đoạn ban đầu, và quy ước khắc khổ, những cái đã tạo nên mặt nạ tiện lợi cho những kẻ bắt chước ông suốt 25 năm.  Do đó chúng ta càng thấy tiếc khi cả Hemingway lẫn Ring Lardner, cũng là một nhà viết truyện lớn khác thuộc những năm 20 hiện nay đều không được nhà xuất bản của mình tái bản truyện ngắn với loại bìa mềm.  Nếu Hemingway cho chúng ta một thế hệ những người trẻ khắc khổ ít nói, lì lợm, ăn nói ngang tàng, không thích những gì bóng gió  hoặc “đưa đẩy,” ông cũng là người, hơn ai hết kể từ Stephen Crane, đã làm sáng tỏ quá trình tạo ấn tượng, và “trình tự của các diễn tiến câu truyện cùng các sự kiện góp phần tạo nên cảm xúc.”
Nhà văn lừng danh đồng thời với Hemingway và cũng đoạt giải Nobel văn chương như ông, William Faulkner, đã đem lại cho truyện ngắn một nét khác.  Dù ông tự sáng tạo ra, hay miền Nam tạo ra một màn sương và các nhà văn chỉ theo đó diễn đạt,  Faulkner vẫn là cha đẻ của trường phái Gothic mới, đặc thù miền Nam.  Ông sử dụng một ngòi bút méo mó, xây dựng những nhân vật kỳ quặc, và cũng không ngần ngại phủ choàng lên một số cảnh trong truyện của ông để đạt hiệu ứng Gothic đầy kịch tính cao nhất.  Tuy nhiên, Faulkner còn cách xa Poe nhiều.  Giống như thuật phù phép của Hawthorne, tính méo mó, bạo lực, với những xác đang mục rữa của Faulkner gắn sát với thực tế xã hội.  Giống Hawthorne, ông là nhà mổ xẻ tội lỗi con người; giống Poe, ông là người sống về “ban đêm,” là người tạo ra các cơn ác mộng, bởi vì trong thế giới của Faulkner tội lỗi nguyên thủy về nạn nô lệ da đen khiến mọi người phải mất ngủ, làm biến thái nhân vật và khiến tâm hồn trở nên méo mó.  Dù người ta có nhìn nhận toàn bộ tác phẩm của ông là phản ánh sự xuống dốc và mục nát của miền Nam sau Nội chiến, và, tới một mức độ nào đó, không cần phải đặt câu hỏi, người ta phải thừa nhận rằng ông đã “tạo ra một thế giới riêng biệt.”
Tưởng cũng không cần thiết phải nói thêm gì nữa về truyện ngắn.  Cho đến nay những ý tưởng cải tiến kỹ thuật viết truyện ngắn của Poe, James, Anderson, Crane, Hemingway, và Faulkner —cùng với đóng góp của Chekhov, Kipling, Joyce và Mansfield— đã trở thành tài sản của mọi người.  Phương ngữ, cái mà một thời đã là phương tiện chuyển tải nét hài hước và sau đó phong cách địa phương, đã chứng tỏ cho chúng ta thấy nó có thể hòa nhập vào được với các tình huống nghiêm túc, thậm chí chua chát qua ngòi bút Anderson và Ring Lardner, qua những tác phẩm nhỏ thanh thoát của Katherine Ann Porter, qua nét vẽ tinh tế và với thị hiếu cao tuyệt của James hay khuynh hướng Gothic miền Nam, hoặc qua cái gọi là trường phái nhạy cảm của phụ nữ, nhưng phương ngữ lại tránh được sự thái qúa của những cái đó, và dần dần nói lên cho chúng ta thấy giá trị thực sự và vị trí xứng đáng của nghệ thuật truyện ngắn.  Eudora Welty, nhà văn đầy tài năng ứng xảo tuyệt vời, đã học được từ Katherine Mansfield, James, Faulkner, Porter, và bà đã viết về những điều kỳ quặc pha trộn cả hài lẫn bi với kỹ xảo tầm cỡ như Faulkner.
Cần phải chú ý mặc dù tiểu thuyết có vẻ xuống dốc từ đỉnh cao những năm 1920 và đầu những năm 1930, riêng truyện ngắn không hề cho ta thấy dấu hiệu nào nó đã kiệt sức hoặc không rõ hướng đi. Khi những người hiếu kỳ trên thế giới hỏi chúng ta ai là nhà văn trẻ và giỏi của Mỹ, những người nối gót Hemingway, Faulkner, Fitzgerald, Wolfe,  và Steinbeck, chúng ta  có thể gặp khó khăn không tìm đủ người thay thế cho những tiểu thuyết gia đó, nhưng chúng ta lại ít gặp khó khăn khi nêu tên những nhà văn trẻ tuổi viết truyện ngắn xứng đáng so với các bậc tiền bối của họ.  Trong tuyển tập này chúng tôi chỉ xin giới thiệu qua một vài nhà văn như thế, để chỉ ra rằng truyền thống truyện ngắn, vốn đã đạt đến đỉnh cao những năm 1920, từ lúc ấy đến giờ đã tiến đến đâu.
Chính qua truyện ngắn chúng ta mới thấy rõ người Mỹ chúng ta, bởi vì chúng cho chúng ta ngàn mắt, ngàn cách nhìn, ngàn tình huống kể chuyện, và ngàn giây phút giúp chúng ta hiểu rõ mình hơn.  Điều mà truyện ngắn hiện đại nhắm vào có lẽ là một sự soi sáng, chứ không hẳn là một cú sốc hay “hiệu ứng”: Kể  từ Poe, phải nói chúng ta đã đi được một bước dài.  Về chủ đề, truyện ngắn nay đã bàn rộng rãi đến ngõ ngách biên địa của đời sống chúng ta: thoạt  đầu do các nhà văn viết về đặc điểm, màu sắc địa  phương giúp phát triển bao gồm mọi miền địa lý và con người, tiếp đến nhờ Anderson cùng các nhà văn nối gót ông bành trướng thêm để đi vào những hành vi con người trước đây bị cấm kỵ, và rồi được các nhà văn về sau khai thác cả đến vùng vô thức của con người.
--
* The Dial là tạp chí phê bình văn học của Mỹ từ 1840 đến 1929.
                                                                       
                                                                                ******
Nguồn:
                                                                       
"Lời Mở Đầu" của Wallace và Mary Stegner, hai tác giả đã tuyển chọn các truyện ngắn in trong Great American Short Stories --- Tuyển Tập Truyện Ngắn Nổi tiếng Của Mỹ (New York, NY: DELL Publishing Company, Inc., 1957).
Wallace Stegner là nhà văn viết truyện ngắn nổi bật, tác giả nhiều tiểu thuyết, trong số đó có tác phẩm tự truyện Ngọn Núi Lớn Rock Candy (1943)/The Big Rock Candy Mountain; ông cũng là cộng tác viên thường xuyên cho một số tạp chí trên toàn nước Mỹ.  Ông là nhà giáo dục và từng giữ chức vụ lãnh đạo Trung Tâm Đào Tạo Sáng Tác Văn Học tại Stanford University.  Vợ ông, bà Mary Stegner, là cộng sự đắc lực trong họat động văn học chồng, va nhiều năm bà là chủ bút cho nhà xuất bản Houghton Mifflin tại trụ sở đặt ở miền Tây nước Mỹ.

No comments:

Post a Comment

Note: Only a member of this blog may post a comment.