Một trăm hai
mươi lăm năm trước, * vào ngày 14 tháng Giêng năm 1832, Edgar Allan Poe cho đăng trong tờ
Philadelphia Saturday Courier truyện ngắn “Metzengerstein.” Trong đó lần
đầu tiên ông đã sử dụng kỹ thuật tạo hiệu ứng duy nhất ,** mà dựa theo đó các nhà văn đã sáng tác ra truyện ngắn hiện đại. Cái khởi đầu do người Mỹ
sáng tạo đã trở thành một chuyên môn của Mỹ: trong số tất cả các
nhà viết truyện ngắn bằng tiếng Anh, những văn sĩ lớn nhất đều là
người Mỹ, có lẽ với khoảng sáu ngoại lệ trong suốt một trăm hai mươi
lăm năm qua. Trong số sáu ngoại lệ phải kể
Kipling là người Anh thực dân xứ Ấn độ, Conrad đã rời bỏ Ba lan sang
Anh sống, Joyce và O’Connor người Ái nhĩ lan, Katherine Mansfield người
Tân tây lan, và D. H. Lawrence người Anh chính thống. Cũng trong những năm ấy, ở Mỹ không chỉ
đã có Poe và Hawthorne, hai văn sĩ đồng sáng tạo ra thể loại truyện
ngắn, mà còn xuất hiện Henry James, Stephen Crane, Sherwood Anderson, Ring
Lardner, Ernest Hemingway, William Faulkner, Katherine Ann Parter, và hai tá
văn sĩ đầy tài năng tuy kém nổi tiếng hơn, những người đã tiếp thu
những gì Poe và Hawthorne để lại, và còn làm phong phú và phát
triển thêm, làm tinh chuyên và mạnh mẽ hơn thể loại truyện ngắn. Một phần vì bắt đầu sớm như thế, một
phần vì các điều kiện đa dạng của Mỹ và bản chất ngành báo chí
Mỹ, mức độ chung về thành tựu của thể loại truyện ngắn ở Mỹ có
lẽ cao hơn ở bất cứ nơi nào khác trên thế giới. Nếu có một thể loại văn học nào có
thể diễn đạt trọn vẹn đầy đủ nhất dân tộc Mỹ, thì đấy chính là truyện ngắn --nhạy cảm, trang trọng, tập trung, ngắn gọn và
thấm sâu tâm hồn người đọc.
Trong tuyển
tập này chắc chắn sẽ có vài truyện ngắn khá quen thuộc. Đọc qua hàng trăm hay hàng ngàn truyện
trong các quyển sách về văn
chương dùng làm
quà tặng của thế kỷ
19,***các ấn bản tân
niên, tạp chí
và những bộ sưu
tầm, chúng ta sẽ thấy
trân quý các
quá trình mà thời gian cùng các
nhà biên soạn
tuyển tập đã trải
qua để sàng lọc
truyện hay ra khỏi truyện tồi.
Thường những truyện hay nhất cũng là những truyện được nhiều người biết đến nhất, như trường hợp Washington
Irving: chưa bao giờ ông viết hay bằng, và càng hiếm hơn nữa số truyện ông
viết hay hơn hai truyện ngắn “Rip Van Wrinkle” và “The Legend of the Sleepy
Hollow” (Huyền thoại về kỵ sĩ không đầu). Cũng vậy, đối với các nhà văn
khác, hầu như không thể tìm thấy một truyện ngắn nào ít được biết
đến nhưng lại là một trong những truyện hay nhất của cùng một tác
giả. Khi chọn truyện ngắn cho tuyển
tập này, nhất là với các nhà văn thế kỷ 19, phần lớn chúng tôi chỉ chọn
truyện nào chúng tôi ngưỡng mộ nhất, chứ không tìm hiểu xem nó đã
được in trong các tuyển tập bao nhiêu lần rồi. Thực ra, chúng tôi có hai tiêu chuẩn để
chọn lựa: tính tuyệt hảo của bản thân truyện, và tính đại diện hay
tiêu biểu của nó trong lịch sử phát triển truyện ngắn ở Hoa kỳ.
-----
*
Great
American Short Stories (New York:
NY, Dell Publishing Co., Inc., 1957).
Edited by Wallace and Mary Stegner. Tuyển tập truyện ngắn nổi
tiếng của Mỹ (Nhà xuất bản Dell Publishing Co., Inc., New York, NY,
1957). Wallace and Mary Stegner chủ biên.
**
In Poe's essay "A Theory of the
Short Story" he says that
"a certain unique or single
effect [should] be wrought out." But later in the essay Poe also
says that the aim or purpose of the story should be truth. He writes,
"Truth is often, and in very great degree, the aim of the tale. . .
." Trong bài "Lý thuyết về truyện ngắn" Poe cho
rằng nhà văn phải "tạo ra một hiệu ứng độc đáo duy nhất." Sau đó,
cũng trong bài ấy, ông nói mục đích của truyện ngắn phải là sự
thật. Ông viết, "Thường sự thật chính là mục tiêu của câu
truyện, ở một mức độ rất cao...."
A single effect is a paradigm
that Edgar Allan Poe created signifying that a story must produce one specific
and consistent effect in the reader.
Hiệu ứng duy
nhất, một mô thức do Edgar Allan Poe tạo ra, có nghĩa là truyện ngắn
phải có một hiệu ứng cụ thể và nhất quán nơi người đọc.
***
Gift books, literary annuals or a keepsake
were 19th-century books, often lavishly decorated, which collected essays,
short fiction, and poetry. They were primarily published in the autumn, in time
for the holiday season and were intended to be given away rather than read by
the purchaser. Sách thuộc thế kỷ 19 ở Mỹ có nội dung về văn chương,
được trang trí đẹp để tặng dịp cuối năm.
Những tiêu
chuẩn này đã loại bỏ một số điểm thường thấy trong các lược sử và
niên biểu đầy đủ về truyện ngắn bởi vì có một số truyện và khuynh
hướng tuy được ái mộ vào thời đại chúng xuất hiện, đã bị mất dần
độc giả vì thị hiếu thay đổi, và chúng trở nên không còn quan trọng
nữa. Fitz-James O’Brien, người dù đã
khéo léo nhào nặn tính cách giả khoa học và hiện thực trong tác
phẩm của Poe, cũng khó lòng đủ sức hấp dẫn người đọc ngay cả với
truyện ngắn hay nhất của ông là “The Diamond Lens” (Kính Kim Cương), để được chọn. Edward Everett Hale với tình cảm yêu nước
lai láng trong truyện “The Man Without a Country” (Người Đàn Ông Không Tổ quốc), hoặc với xảo thuật vui nhộn qua
truyện “My Double and How He Undid Me” (Người Giống Hệt Tôi và Cách Anh Ta
Làm Không Còn Giống Tôi Nữa) dường như không hướng đến một
điều gì hay biểu trưng một nét đặc thù nào của ông. Frank S. Stockton, một nhà văn viết rất
nhiều chuyện ngụ ngôn cho trẻ em, đã kích thích mạnh trí tưởng tượng
của những người thuộc thế hệ ông qua truyện “The Lady, or the Tiger?” (Người Đàn Bà Hay Là Con Hổ?), một truyện ngắn đã có một vị
trí hầu như cố định trong truyền thống truyện ngắn. Nhưng “The Lady, or
the Tiger?” hoàn toàn không phải là một truyện ngắn hiện đại; chẳng
qua nó chỉ là một tiểu thuyết ngắn --kiểu Ý, loại thường được
Boccacio kể và đã được sửa đổi, mài dũa kiểu báo chí cho hay
hơn. Truyện “Marjorie Daw” rất được
mến chuộng của Thomas Bailey Aldrich, một truyện ngắn được cho là đã
thay đổi sáng tác văn học suốt một thập niên, giờ đây lại trở thành
một kiểu sáng tác thời thượng, khá vui nhộn, nhưng không đào sâu vào
nhân vật, không có bối cảnh phong phú hoặc chiều sâu tâm lý, không
để lại “hiệu ứng” gì mà một người có thể đòi hỏi nơi một truyện
ngắn thuộc truyền thống những truyện ngắn lớn. Một kiểu
đùa cợt thực tế, có văn hóa dưới dạng thức truyện ngắn, “Marjorie
Daw” đã tránh né yếu tố khá tất yếu từng có trong các truyện
Mỹ, một yếu tố đã được Hawthorne lần đầu tiên thêm vào. Đó là việc đặt nặng vấn đề đạo đức và trí thức, mà Henry Seidel Canby
từng gọi là “sức hấp dẫn đặc thù.” Ngay cả những khi khôi hài, một
truyện ngắn Mỹ điển hình cũng đòi hỏi phải được nghiêm túc xem như
phản ảnh cuộc đời, các cử chỉ, đạo đức của nhân vật hoặc ước
nguyện của dân tộc. Trong tuyển tập
này, chúng tôi đã loại bỏ những truyện tuy có vẻ hay về kỹ xảo
nhưng thiếu mất trọng lượng về nét đặc thù nói trên.
2
Vì những
truyện trong tuyển tập dành cho đối tượng học sinh sinh viên, trong và ngoài lớp
học, cũng như cho các độc giả nói chung, xin cho chúng tôi đánh bạo
nói thật chi tiết về những truyện nổi bật, và nhắc lại những truyện
nổi tiếng bằng cách khái lược qua truyền thống truyện ngắn mà chúng
minh chứng. Đối với loại truyện có
các diễn biến nối kết nhau theo trình tự thời gian, mà “Rip Van
Wrinkle” là một trong những ví dụ dễ thương, khôi hài, lịch sự nhất,
Poe đã thay thế bằng một loại truyện tạo hiệu ứng, tức là truyện
chỉ nhằm để lại một ấn tượng duy nhất đã được thai nghén trước,
đạt được bằng các phương cách tiết kiệm và trực tiếp nhất, trong đó
diễn biến truyện tập trung vào một đỉnh điểm, từ đầu đến cuối đều
gợi lên nơi độc giả một cảm xúc như nhất, khiến những gì không thể
xảy ra trở nên hợp lý qua các sự kiện sống động, cụ thể tuyệt hảo
như trong truyện của Defoe, đồng thời cũng để lại ấn tượng gợi cảm
phong phú có thể học được từ các nhà thơ lãng mạn. Kỹ thuật Poe bắt đầu phát triển trong truyện
“Metzengerstein” và đã định nghĩa rõ ràng trong bài bình duyệt của
ông về tác phẩm “Twice Told Tales” (Những Truyện Được Kể Hai Lần) của Hawthorne mười năm sau đó, chủ
yếu đã được tạo nên để làm cái khó tin thành ra có thể tin
được. Mặc dù thời gian đã không
nương tay lắm đối với các loại hiệu ứng đặc thù nơi tác phẩm của Poe, vốn liên quan nhất quán với
loại truyện kinh dị và gay cấn theo kiểu văn học lãng mạn Đức và bao
phủ bởi một màu đen tăm tối kiểu Gothic, phải nói rằng thể loại
truyện ngắn có thể đã không phát triển như nó đã phát triển nếu
không có những tính cách gay cấn sống động đòi hỏi những phương tiện
biểu đạt sống động như thế.
Poe nói rằng
truyện kinh dị của ông “không phải về
nước Đức mà về tâm hồn,” nhưng đối với đa số độc giả hiệu
ứng ông tạo ra có vẻ không gì hơn việc khiến họ phải rợn người. Thực sự ông cũng không phải là một nhà
tâm lý sâu sắc lắm; tính cách “điên loạn” trong tác phẩm của ông, một
tính cách kỳ quặc không sai chạy thường thấy nơi các nhân vật của
Poe, chỉ thấy trong văn chương sách vở chứ
không phải từ quan sát đời thường.
Việc Poe có thói quen dùng kỹ xảo cứng ngắt khá lạnh lùng và
không hiện thực, việc ông chỉ chuyên tập trung tạo hiệu ứng tâm lý,
và hay giới hạn chủ đề vào loại truyện kinh dị và truyện “mang tính
tư duy logic” đã khiến ngày nay độc giả của Poe phần đông là người
trẻ tuổi. Cái Poe gọi là truyện
tư duy logic, vốn là cha đẻ trực tiếp của truyện trinh thám và hoàn
chỉnh với nhân vật Watson, viên cảnh sát ngô nghê, vị thám tử nghiệp
dư cực kỳ thông minh, và trò chơi thú vị về các dấu vết hiện trường
giả và cách suy đoán tài tình, cũng sinh động như khi Poe tạo ra nó
qua truyện “The Murders in the Rue Morgue” (Án Mạng Tại Nhà Xác Rue). Khi nói
rằng thể loại văn học này khiêm nhường hơn, chúng ta không
nên đánh giá thấp tầm vóc quan trọng của Poe là người đã thổi những
luồng gió mới cho nó. Truyện kinh dị của ông cũng là một thể loại
văn học khiêm nhường tương tự như vậy –giống như truyện tư duy logic, truyện
kinh dị của Poe biểu trưng việc dành hết sức tài năng lớn vào mục
đích tương đối nhỏ. Trước khi Poe
có thể làm truyện kinh dị của mình thật sự là truyện kinh dị về tâm
hồn, ông đáng lẽ đã phải biết nhiều tâm hồn hơn của chính ông –điều
ông chẳng bao giờ làm. Hiệu ứng cao
nhất trong tác phẩm của Poe là gây ra sự sợ hãi phi lý về việc bị giam trong phòng kín, như bản
thân Poe đã từng sợ.
Nhưng dù hiệu
ứng Poe tạo ra có hạn chế, kỹ thuật ông phát triển nhằm đạt được
các hiệu ứng ấy lại vô hạn. Việc
tập trung vào một ấn tượng mãnh liệt duy nhất là một ngón nghề mà
trong tay nhà văn khác có thể được dành trọn cho các mục đích
khác, thường sâu xa hơn. Dưới ngòi
bút của Fitz-James O’Brien cả ý định lẫn kỹ thuật đều không thay đổi
nhiều: “The Diamond Lens” (Kính Kim Cương) cho thấy một nhân vật chính bị điên, một kiểu giả khoa học,
và một nỗ lực tương tự nhằm làm truyện như thật. Ambrose Bierce tạo được hiệu ứng rùng
rợn hơn, mặc dù kém đi vẻ Gothic so với Poe. Nhưng nếu ta hướng thật xa về phía trước, hướng đến những truyện
hiện đại như truyện “The Lottery” (Xổ Số) của Shirley Jackson, hoặc truyện “A
Good Man Is Hard to Find” (Người Tốt Khó Tìm) của Flannery O’Connor, thì ta có thể nhận thấy những kỹ thuật
mang tính thuyết phục tương tự được dùng để khiến độc gỉả chúng ta
không thể không tin vào tình huống hoặc để tạo hiệu ứng rất
khác truyện của Poe.
Ảnh hưởng
của Poe rộng lớn đến nỗi chúng ta không thể nào không đánh giá nó
thật cao: ông gần như ảnh hưởng tất cả các nhà văn viết truyện
ngắn. Ảnh hưởng của Poe trọn vẹn
hoặc có thay đổi được minh chứng qua truyện “Silent Snow, Secret Snow” (Tuyết Im lặng, Tuyết Bí Mật) của Conrad Aiken –nhìn bề mặt
truyện của ông giống truyện Poe ở chỗ nó ghi lại tiến trình hóa
“điên” của một con người. Nhưng hiệu
ứng Aiken tạo nên mang tính người, không hề giả tạo; giọng văn của ông
đầy cảm thông và từ bi, chứ không làm rợn người. Giả như câu chuyện chỉ là một hồ sơ
bệnh lý lâm sàng về một cậu bé rơi xuống bờ vực để trở thành kẻ
mắc bệnh tâm thần phân liệt sống co rút không tiếp xúc ai, thì truyện
ấy đã không khiến chúng ta xúc động như thế. Nó gây xúc động vì nó thực sự nói về
tâm hồn con người, điều mà truyện của Poe không nói được.
“The Fall of
the House of Usher” (Tòa Nhà Usher Bị Sụp Đổ) đối với chúng ta có thể xem là tiêu biểu cho đỉnh cao tài năng
của Poe. Nó có tất cả các nét
thêm thắt mang tính Gothic, gần như nhiều đến độ gây nhàm chán. Ấy
vậy mà tòa biệt thự điêu tàn với những nhân vật bệnh hoạn thần
kinh, những gì kỳ quặc mà người ta biết về nó, những ước thúc và
nỗi lo âu sợ hãi trong biệt thự, những sự kiện kinh dị diễn ra chớp
nhoáng ở đó có thể xem là nơi nương trú đích thực cho bản chất bị
dằn vặt của Poe. Về mặt thủ
thuật, không dễ có truyện nào sánh bằng, nhất là hình ảnh lộn
ngược đầy chết chóc của biệt thự định mệnh được in bóng xuống mặt
hồ.
Cả truyện
“The Fall of the House of Usher” (Tòa Nhà Usher Bị Sụp Đổ) của Poe lẫn truyện “Young Goodman Brown” (Chàng Goodman Brown Trẻ Tuổi) của Hawthorne đều được xây dựng trên một chuyến ra đi và trở về, đến nơi và khởi hành, cả hai đều đi từ ánh sáng vào bóng
tối, rồi lại trở về ánh sáng, hay cái gì đó tương tự ánh
sáng. Nhưng trong khi cái tăm tối
của Poe là sự tăm tối mang kịch tính của loại truyện kinh dị,
Hawthorne tìm cách nói lên ý cùa mình về khu rừng tăm tối như
sự tăm tối của tâm hồn, cả một khu rừng tội lỗi và xấu xa. Việc chàng Goodman Brown trẻ hội nhập
vào tội lỗi vốn có từ lâu của toàn thể loài người, việc chàng tin
rằng đức hạnh chỉ là cái mặt nạ bề ngoài và mọi người đều có
tội, rõ ràng cũng chẳng “hiện thực" gì hơn phần lớn truyện của
Poe. Nhưng chúng ta hãy quan sát xem
thuật phù thủy này của Hawthorne đã được chuyển đổi dưới những cách
thức khác như thế nào. Hãy xem ông
đã biến chàng Goodman Brown trẻ thành đại diện cho cái lạnh lùng
ghét đời và buồn bã của Puritanism
(Thanh giáo) một cách hết sức tự nhiên, và xem ông đã biến cuộc mạo hiểm
của chàng vào tà thuật phù thủy như kinh nghiệm của moị người trước
sự cám dỗ và bản chất xấu xa, việc con người rơi xuống vùng vô thức
của “con tim đen tối” ra sao. Sự hủy
diệt của chàng Brown trẻ thuộc kiểu khác so với điều chàng lo sợ,
nhưng sự hủy diệt ấy lại hoàn chỉnh hơn nỗi sợ của chàng. Xét về “lực hấp dẫn đặc thù” thì
truyện này, nếu so với truyện của Poe, cũng như đá hoa cương (granite) so với gỗ thông. Nhà mổ xẻ tội
ác, hành vi vô đạo đức và tâm hồn bệnh hoạn của miền New England (Hawthorne) biết rõ hơn và cảm nhận rõ hơn
so với nhà ứng biến tài tình về những tâm tư bệnh hoạn của tiểu
bang Virginia (Poe), và nét tăm tối kiểu Thanh giáo
ở cuối truyện gần với thực tại con người hơn tính cách Gothic trong
truyện của Poe nhiều.
Tuy nhiên, so
với Poe, tài viết văn của Hawthorne không thể hoàn hảo bằng. Poe chẳng bao giờ để câu truyện cho
đến lúc Brown trở về đã thật chặt chẽ, tập trung, hấp dẫn, đầy
hình ảnh sống động, lại kết thúc một cách nhạt nhẽo, với phần phụ
lục khiến người đọc thất vọng.
Henry Seidel
Canby, với bài viết của mình tựa đề “The Short Story in English” (Truyện Ngắn Tiếng Anh) là một trong số rất ít nghiên cứu nghiêm túc và có giá trị lâu
dài về thể loại truyện ngắn, từ lâu đã nêu lên một đóng góp rất
quan trọng của Hawthorne cho tương lai truyện ngắn, cũng quan trọng như
việc ông rất mực quan tâm đến vấn đề đạo đức và chiều sâu mang tính
biểu tượng trong truyện của ông. Đó
là việc Hawthorne không làm truyện của mình có những diễn biến nối
kết nhau một cách tuyệt vời kiểu Irving, cũng không tạo hiệu ứng
gượng gạo kiểu Poe, mà chỉ phơi bày và khảo sát các tình
huống. Trong toàn bộ quá trình
phát triển, không chỉ riêng ở Mỹ, truyện ngắn đặc trưng đã
xoay lưng lại với cốt chuyện
(plot), và có khuynh hướng trở nên cái mà Henry James gọi là “tình
huống được hé lộ” (“situation revealed”), chứ không còn thiên nhiều về việc giải quyết một tình huống
phức tạp nữa. Loại truyện như thế
nhất thiết sẽ ít tình tiết sôi động hơn (tĩnh hơn), nhưng lại có thể làm phát triển
tính cách các nhân vật và phân tích các động cơ tốt hơn, và làm
người ta chú ý nhiều hơn đến giọng văn, không gian và chủ đề
truyện. Thường loại truyện như thế
sẽ biến quá trình viết văn thành một hành vi tìm hiểu,
khám phá về tri thức, đạo đức và
tình cảm. Thể loại truyện không
còn là một bó thúc quy ước mà là một sự khám phá, và kết thúc
truyện ít mang vẻ “tạo hiệu ứng,” mà là một sự soi sáng.
Theo khuôn mẫu
ấy, chúng ta dễ nhận ra cái có thể là khuynh hướng đặc thù
nhất của truyện ngắn hiện đại.
Hawthorne đã khởi đầu cái mà James, Chekhov, Joyce, Masfield, và
những nhà văn hiện đại sau này sẽ phát triển thêm hơn một thế kỷ. Nhưng từ Hawthorne cho đến James, sự cách
biệt hiện giờ vẫn còn nhiều. Chỉ có nhà văn Melville cô đơn, khó tính và buồn
bã –người mà chủ yếu không phải là một nhà văn chuyên
viết truyện ngắn và chắc chắn ông cũng không ảnh hưởng gì đến
truyền thống viết truyện ngắn của thế hệ ông hay bất cứ thế hệ nào
khác. Một số truyện trong tập Piazza Tales của ông đã được đăng
trong tạp chí Putnam’s Magazine từ
năm 1853 đến năm 1855 sau thất bại của hai quyển tiểu
thuyết Moby Dick (Săn Cá Voi) và Pierre đã khiến ông cố gắng thử viết truyện cho các tạp
chí để kiếm tiền. Có lẽ tất cả
đều là những câu chuyện ngắn theo
định nghĩa của Poe; ít nhất chúng ta có thể ngồi xuống một lần là
đọc xong chúng ngay. Tuy nhiên có
một số truyện là tiểu thuyết ngắn theo tiêu chuẩn hiện thời, và quả
thực chúng từng được tập hợp với một số truyện khác dưới tựa đề
“những tiểu thuyết ngắn.” Truyện
"Bartleby và Scrivener" /“Bartleby and
Scrivener” minh chứng khá tốt giống như bất cứ các truyện dài hơn nó về sức nặng đạo
đức và tri thức mà nó hàm chứa, về việc khảo sát chặt chẽ một
tình huống, và cái nhìn sâu vào bên trong mang tính tâm lý và biểu tượng, điều đã cho
phép chúng ta xem nhà văn viết truyện ngắn Melville như một cây cầu nối
vững chắc giữa Hawthorne và James.
Henry James
bắt đầu sự nghiệp của mình những năm cuối của thập niên 1860, lúc đó sự nghiệp của Hawthorne đã khép lại, còn Melville im
hơi lặng tiếng với việc làm trong nhà quan thuế. James đã viết truyện trọn nửa thế kỷ
cho đến khi ông qua đời năm 1916; và
những đóng góp
của ông cho nghệ thuật văn xuôi hư cấu –dù là tiểu thuyết, truyện
ngắn, hay “blessed nouvelle” (loại truyện ngắn dài hơn nhiều so
với các truyện ngắn khác), đã quá nổi tiếng nên ở đây không
cần tóm lược thêm nhiều nữa. Ông không phải là
nhà văn có những đột phá mới, mà là nhà văn làm thể loại truyện
ngắn bóng bảy thêm. Ông đã lấy
loại chuyện nghiêm túc nặng về luân lý và đạo đức nói về một tình
huống của Hawthorne, và đã tinh chuyên nó đến độ ông thực sự biến
mình thành “nhà sử gia của lương tâm trong sáng” như Conrad đã gọi
ông. Henry Janes giữ lại phương pháp
tập trung vào một điểm duy nhất trong truyện của Poe, vất bỏ cỗ máy
Gothic nặng nề và chủ đề gay cấn của nó, và áp dụng phương pháp ấy
vào các tình huống từ kinh nghiệm quan sát được. Điều ông có thể
làm với một tình huống mà ông muốn “hé lộ” cho người đọc thấy được
minh chứng qua truyện “Madonna of the Future” (Madonna của tương lai), và truyện “The Beast of the Jungle” (Con thú dữ trong rừng già), những truyện chứa đủ các ưu điểm của Poe, cộng thêm nội quán
tâm lý vô cùng tinh vi, bén nhạy.
Là một nhà
văn điêu luyện tài ba, nhưng quan trọng hơn hết là James đã thử nghiệm
về giới hạn của quan điểm. Ông loại bỏ
vai trò nhà văn vốn
là người biết
tất cả về
câu truyện, và thay thế
vào đó người
kể chuyện, “danh mục trong các
hồ sơ,” “cơ quan tình
báo,” cùng với
sự hỗ trợ
của những người bạn
thân của người kể và các
mối liên hệ khác.
Ông đưa đẩy câu chuyện
vào các lối
thoát ngày càng
nhỏ dần, cho đến khi, giống như
nước vọt mạnh ra khỏi
miệng vòi,
thay vì được cho chảy
tự do từ từ trong ống
ra, câu truyện đạt đến mức độ
tập trung và có sức mạnh đặc biệt.
Ông đã không mệt mỏi
đào sâu vào những kỹ
thuật viết văn rất
khó, rồi cố
gắng tìm cách thoát ra. Phần
lớn những kỹ
xảo do ông sáng tạo
ra nhắm vào các phương
cách hợp lý
của việc sử dụng chất liệu
để liên lạc
trao đổi hay mô tả, để xây dựng nên câu chuyện với kiểu
bình phẩm, mà
ông không thể làm
được khi từ bỏ vai trò hiểu
biết tất cả
của nhà văn về
câu chuyện. Giống như
một người sau khi đã làm xáo
trộn sự quân bình của thiên
nhiên bằng cách
giết chết loài
sói hoang Bắc Mỹ (coyote), phải đối
mặt với nạn thỏ hoang
sinh sản quá nhiều;
rồi chẳng bao lâu sau khi kiểm
soát được thỏ
hoang, anh ta lại thấy mình phải
đương đầu với
tình trạng cỏ
hoang mọc tràn lan. Bằng cách sáng
tạo cái mới
thường xuyên, ông luôn
có cách đi trước
một bước kết quả của
những gì chính ông đã sáng tạo.
Kết
quả là những đóng
góp thật to lớn
của James về mặt kỹ thuật
viết văn. Nhưng cách ông
tô điểm kỹ
xảo ấy với vấn đề đạo
đức, với tính cách
hiếu kỳ không
bao giờ thỏa mãn
của mình, và với quan điểm ông
xem tiểu thuyết văn xuôi
như một nghệ thuật
cao có lẽ cũng
quan trọng không kém.
Mặc dù Someset Maugham từng gọi
ông là người
có ảnh hưởng tệ
hại nhất có thể
có đối với văn xuôi,
phần lớn tiểu
thuyết hiện đại chịu ảnh
hưởg trực tiếp
từ James. Loại truyện nói
về tâm trạng,
khảo sát ý
thức con người, qua việc khám
phá một tình huống tâm
lý, đã học được nơi ông rất
nhiều. Dù ảnh hưởng
tốt hay xấu, ông
vẫn là một trong những
người giúp đem văn
chương tiểu thuyết
từ ngoài đường phố
vào sâu trong tâm
hồn con người. Đôi
khi ông chia chẻ phân tích
quá chi li; đôi khi ông
viết văn xuôi như thể
ông tra tấn nó. Một trong những
truyện ngắn nổi tiếng nhất của
James, “The Real Thing” (Vật thật), được đưa vào
tuyển tập này vì nó
chứa đựng những
nét tuyệt hay của James mà không
có hai nét khiếm
khuyết nói trên.
Đóng góp trực tiếp về mặt lý luận và kỹ thuật viết truyện ngắn nhiều hơn cả James là phong trào mang màu sắc địa phương, một phong trào thống lĩnh văn xuôi Mỹ từ sau cuộc Nội Chiến cho đến đầu thế kỷ 20. Chính tính cách địa phương, nhất là với tác giả Bret Harte, đã làm truyện ngắn trở nên được ưa chuộng, và khiến nó được công nhận như một thể loại riêng. Nó cũng khiến truyện ngắn có một tầm vóc khá rộng lớn về đề tài nó đề cập.
Chủ yếu là một cuộc hành trình về nhiều hướng nhằm khám phá dân tộc, phong trào mang tính địa phương chí thú mô tả những cảnh ngoạn mục, sống động. Với những nhà văn lãng mạn hơn, “nhiều sắc thái” hơn của phong trào này, truyện ngắn có thể là một thí dụ về tranh vẽ phong cảnh hoặc về phong tục và địa phương học bằng văn xuôi. Thỉnh thoảng những truyện về dân lai Âu châu và da đen Creole vùng Caribbean của George Washington Cable, giống như truyện về tiểu bang Virginia của Thomas Nelson Page hoặc truyện nói về miền núi ở tiểu bang Georgia của Joel Chandler Harris, hoặc ngay cả những nét phát họa tinh tế của Celia Thaxter về quần đảo Shoals, cũng thật gần với phong thái từ tốn, thong dong và hàm ý giống như huyền thoại của Washington Irving. Nhưng với Bret Harte, mặc dù ông đã chọn phong cách phóng túng lãng mạn khi viết về xã hội những người đi tìm mỏ vàng, truyện mang màu sắc địa phương lại có người kể chuyện mà đối với người đó câu chuyện mới quan trọng, và kỹ xảo viết văn cũng chỉ quan trọng như câu chuyện mà thôi.
Có rất ít chấn động văn học lớn như chấn động xảy ra sau khi truyện “The Luck of Roaring Camp” (Cái may của trại đào mỏ vàng Roaring Camp) in trong tờ Nguyệt san Overland hồ́i tháng Tám 1868. Bên cạnh những phê phán về mặt đạo đức và thị hiếu của tác giả, Harte đã trải nghiệm việc ông trở nên nổi tiếng thật nhanh đến độ phải chóng mặt, biết bao nhiêu người bắt chước kiểu sáng tác của ông làm ông cảm thấy tự ngã được thổi phồng, và ông còn được phó chủ bút tờ Atlantic khích lệ bằng lời mời cộng tác với lương thật hậu hỉ. Ông còn nhiều chuyện nữa cùng chủ đề này để viết, và lúc đầu chúng cũng hay không kém truyện “The Luck of Roaring Camp.”
Không hẳn đơn phương độc mã, mà với sự giúp đỡ của những người bắt chước cách viết của ông ở các vùng khác, ông đã khẳng định thế đứng cho truyện ngắn, nối kết nó với đời sống và chất liệu của Mỹ. Ông đã trở nên nổi tiếng đến độ năm 1899, trong một bài nghị luận về sự trỗi dậy của truyện ngắn, ông một mực khẳng định rằng ông không phải là người sáng tạo ra thể loại ấy. Tất cả những gì ông làm được chỉ là áp dụng những phương pháp vốn đã được nhiều người biết đến vào đời sống nhiều màu nhiều vẻ, hung hăng, và độc đáo ở các láng trại của những người Mỹ đi tìm mỏ vàng. Để làm nổi bật sự tương phản vốn đã rõ nét, Harte đã mượn xảo thuật viết của Dickens khi tạo ra các nhân vật có tính cách đầy mâu thuẫn ngay nơi một con người, như tả kẻ bất lương gian hùng với gương mặt thánh thiện như trong tranh Raphael, kẻ cờ bạc đĩ điếm nhưng lại có trái tim dịu dàng và một lương tri nhạy cảm trước sự đau khổ của người khác. Những người đánh xe ngựa mắt đầy lo âu tuyệt vọng, nhưng lại đáng tin cậy, những kẻ bướng bỉnh lì lợm và những phu mỏ thô kệch (như Tennessee và bạn của ông) nhưng lại thật trung thành và chan chứa tình người.
Dưới ngòi bút khéo léo của Bret Harte, truyện ngắn đã trở thành một thể loại văn chương đặc trưng. Cho đến lúc đó vẫn chưa có tên gọi hẳn hoi mà chỉ là “truyện kể” hoặc “bút ký,” đại loại như thế, truyện ngắn đã chính thức được rửa tội vào năm 1885 với bài nghị luận mang tính học thuật mạnh mẽ của Giáo sư Brander Matthews với tựa đề “The Philosophy of the Short Story” (Triết lý truyện ngắn), qua đó ông khẳng định lại các nguyên tắc về tính tập trung và hiệu ứng duy nhất của Poe, nhìn nhận ảnh hưởng lớn lao của Harte, và xác quyết nét khác biệt rõ ràng của thể loại truyện ngắn. Được viết bởi các nhà văn Mỹ nổi tiếng nhất, được đăng trong tất cả các tạp chí, với số độc giả lên đến hàng vạn, và được các giáo sư tại Harvard và Columbia trân trọng, truyện ngắn cuối cùng đã đến với người đọc. Trước đó Henry James đã chứng tỏ cho mọi ngưới thấy những khả năng truyện ngắn có thể xây dựng nhân vật và tình huống vượt xa những nét tương phản sơ sài của Harte, và Mary Wilkins Freeman và Hamlin Garland đã đưa phong trào viết về màu sắc địa phương vào các hướng sâu hơn và ít giả tạo hơn. Chỉ vài năm sau, Stephen Crane, với sự hỗ trợ của Kipling, lẽ ra đã có thể cung cấp cho truyện ngắn một công cụ thuộc trường phái ấn tượng sinh động hơn nhiều mà trước đây tiểu thuyết chưa hề có, ngoại trừ trong các truyện ngắn của nhà văn Nga Chekhov, người mà cho đến lúc đó chưa được độc giả Mỹ và Anh biết đến.
Đóng góp trực tiếp về mặt lý luận và kỹ thuật viết truyện ngắn nhiều hơn cả James là phong trào mang màu sắc địa phương, một phong trào thống lĩnh văn xuôi Mỹ từ sau cuộc Nội Chiến cho đến đầu thế kỷ 20. Chính tính cách địa phương, nhất là với tác giả Bret Harte, đã làm truyện ngắn trở nên được ưa chuộng, và khiến nó được công nhận như một thể loại riêng. Nó cũng khiến truyện ngắn có một tầm vóc khá rộng lớn về đề tài nó đề cập.
Chủ yếu là một cuộc hành trình về nhiều hướng nhằm khám phá dân tộc, phong trào mang tính địa phương chí thú mô tả những cảnh ngoạn mục, sống động. Với những nhà văn lãng mạn hơn, “nhiều sắc thái” hơn của phong trào này, truyện ngắn có thể là một thí dụ về tranh vẽ phong cảnh hoặc về phong tục và địa phương học bằng văn xuôi. Thỉnh thoảng những truyện về dân lai Âu châu và da đen Creole vùng Caribbean của George Washington Cable, giống như truyện về tiểu bang Virginia của Thomas Nelson Page hoặc truyện nói về miền núi ở tiểu bang Georgia của Joel Chandler Harris, hoặc ngay cả những nét phát họa tinh tế của Celia Thaxter về quần đảo Shoals, cũng thật gần với phong thái từ tốn, thong dong và hàm ý giống như huyền thoại của Washington Irving. Nhưng với Bret Harte, mặc dù ông đã chọn phong cách phóng túng lãng mạn khi viết về xã hội những người đi tìm mỏ vàng, truyện mang màu sắc địa phương lại có người kể chuyện mà đối với người đó câu chuyện mới quan trọng, và kỹ xảo viết văn cũng chỉ quan trọng như câu chuyện mà thôi.
Có rất ít chấn động văn học lớn như chấn động xảy ra sau khi truyện “The Luck of Roaring Camp” (Cái may của trại đào mỏ vàng Roaring Camp) in trong tờ Nguyệt san Overland hồ́i tháng Tám 1868. Bên cạnh những phê phán về mặt đạo đức và thị hiếu của tác giả, Harte đã trải nghiệm việc ông trở nên nổi tiếng thật nhanh đến độ phải chóng mặt, biết bao nhiêu người bắt chước kiểu sáng tác của ông làm ông cảm thấy tự ngã được thổi phồng, và ông còn được phó chủ bút tờ Atlantic khích lệ bằng lời mời cộng tác với lương thật hậu hỉ. Ông còn nhiều chuyện nữa cùng chủ đề này để viết, và lúc đầu chúng cũng hay không kém truyện “The Luck of Roaring Camp.”
Không hẳn đơn phương độc mã, mà với sự giúp đỡ của những người bắt chước cách viết của ông ở các vùng khác, ông đã khẳng định thế đứng cho truyện ngắn, nối kết nó với đời sống và chất liệu của Mỹ. Ông đã trở nên nổi tiếng đến độ năm 1899, trong một bài nghị luận về sự trỗi dậy của truyện ngắn, ông một mực khẳng định rằng ông không phải là người sáng tạo ra thể loại ấy. Tất cả những gì ông làm được chỉ là áp dụng những phương pháp vốn đã được nhiều người biết đến vào đời sống nhiều màu nhiều vẻ, hung hăng, và độc đáo ở các láng trại của những người Mỹ đi tìm mỏ vàng. Để làm nổi bật sự tương phản vốn đã rõ nét, Harte đã mượn xảo thuật viết của Dickens khi tạo ra các nhân vật có tính cách đầy mâu thuẫn ngay nơi một con người, như tả kẻ bất lương gian hùng với gương mặt thánh thiện như trong tranh Raphael, kẻ cờ bạc đĩ điếm nhưng lại có trái tim dịu dàng và một lương tri nhạy cảm trước sự đau khổ của người khác. Những người đánh xe ngựa mắt đầy lo âu tuyệt vọng, nhưng lại đáng tin cậy, những kẻ bướng bỉnh lì lợm và những phu mỏ thô kệch (như Tennessee và bạn của ông) nhưng lại thật trung thành và chan chứa tình người.
Dưới ngòi bút khéo léo của Bret Harte, truyện ngắn đã trở thành một thể loại văn chương đặc trưng. Cho đến lúc đó vẫn chưa có tên gọi hẳn hoi mà chỉ là “truyện kể” hoặc “bút ký,” đại loại như thế, truyện ngắn đã chính thức được rửa tội vào năm 1885 với bài nghị luận mang tính học thuật mạnh mẽ của Giáo sư Brander Matthews với tựa đề “The Philosophy of the Short Story” (Triết lý truyện ngắn), qua đó ông khẳng định lại các nguyên tắc về tính tập trung và hiệu ứng duy nhất của Poe, nhìn nhận ảnh hưởng lớn lao của Harte, và xác quyết nét khác biệt rõ ràng của thể loại truyện ngắn. Được viết bởi các nhà văn Mỹ nổi tiếng nhất, được đăng trong tất cả các tạp chí, với số độc giả lên đến hàng vạn, và được các giáo sư tại Harvard và Columbia trân trọng, truyện ngắn cuối cùng đã đến với người đọc. Trước đó Henry James đã chứng tỏ cho mọi ngưới thấy những khả năng truyện ngắn có thể xây dựng nhân vật và tình huống vượt xa những nét tương phản sơ sài của Harte, và Mary Wilkins Freeman và Hamlin Garland đã đưa phong trào viết về màu sắc địa phương vào các hướng sâu hơn và ít giả tạo hơn. Chỉ vài năm sau, Stephen Crane, với sự hỗ trợ của Kipling, lẽ ra đã có thể cung cấp cho truyện ngắn một công cụ thuộc trường phái ấn tượng sinh động hơn nhiều mà trước đây tiểu thuyết chưa hề có, ngoại trừ trong các truyện ngắn của nhà văn Nga Chekhov, người mà cho đến lúc đó chưa được độc giả Mỹ và Anh biết đến.
Mà thật ra
không phải mọi nhà văn đều có thể viết truyện như dòng tiểu thuyết
hư cấu 60 năm qua đã định hình nó. William Dean Howells chưa hề viết được
một truyện hay; ông đã học được quá nhiều từ Addison và Steele*, và Jane Austen** nên khó có thể gò ép thay đổi
cách viết của mình để phù hợp với thể loại mới. Tương tự, Mark Twain cũng không bao
giờ viết được một truyện ngắn hay.
Các thể loại duy nhất mà ông có thể viết thật tốt là bút ký
về miền biên cương mang tính hài hước với các nguyên tắc viết đã
được ông tóm lược trong bài “How to Tell a Story” (Cách thức kể chuyện), và loại truyện ngụ ngôn là thể
loại ông viết tốt nhất.
---
*Joseph Addison (1672
–1719), an English playwright, essayist, poet, and politician. Kịch tác gia,
nhà viết nghị luận, nhà thơ và chính khách người Anh.
Richard Steele (1672 –1729), an
Irish writer, playwright, and politician.Nhà văn, kịch tác gia, và chính
khách người Ái Nhĩ Lan.
They founded The Spectator Magazine.Hai người cùng sáng lập tờ The Spectator Magazine.
**Jane Austen (1775 – 1817),
English novelist. Nữ văn sĩ Anh.
Truyện về ác thú vốn là loại tiểu thuyết xưa nhất có lẽ chưa bao giờ hoàn toàn vắng mặt trong các sinh hoạt văn hóa người Mỹ mang từ Âu châu qua. Ở Mỹ nó đã được thổi một luồng sinh khí mới rất mạnh qua các chuyện thú vật của người da đen, xuất hiện như một phần của loại truyện nặng màu sắc địa phương. Mặc dù loạt truyện “Uncle Remus” của Harris, giống như truyện “Bluejay Yarn,” không phải là truyện ngắn theo cách định nghĩa của Matthews hoặc bất kỳ một định nghĩa nào khác, chúng lại xuất sắc theo cách của chúng, và đã ảnh hưởng truyện ngắn thực bằng nét hài hước và trí khôn ngoan sáng suốt. Bàn về những năm 1880 đến những năm 1940 và 1950, chúng ta hãy hướng nhìn về phía trước đến những tranh hoạt họa của Walt Disney và truyện của James Thurber, đặc biệt là truyện “The Catbird Seat” của Thurber trong tuyển tập này. Nó nói về con người, không phải về thú vật; nhưng nó chắc chắn là người anh tay trái của loại truyện ngụ ngôn chính thống, một biến thể giống như truyện ngắn của loạt truyện Fables of Our Time (Ngụ Ngôn Thời Đại Chúng Ta) là truyện đã kết hợp Thurber với Harris và Twain, cũng như trước đây truyện ngụ ngôn đã kết hợp La Fountain với Aesop. Cốt truyện là một loạt các màn lừa gạt nhau đầy tính hài hước được sắp xếp theo trình tự thời gian, và chủ đề của nó vốn là chủ đề đã có trong thần thoại từ xa xưa: cái yếu thắng cái mạnh. Nếu Ông Martin sắm vai Chú Thỏ, thì Bà Barrows sẽ đóng lốt Lão Cáo.
3
Khi viết bài nghiên cứu hữu ích về
truyện ngắn năm 1909, Canby biết
rõ vai trò quan trọng của Hawthorne, Poe, James và Harte
cùng những nhà văn viết truyện ngắn mang màu sắc địa phương. Ông bỏ qua không nói gì đến tầm quan
trọng của truyện ngụ ngôn về thú dữ với một lý do nào đó, vì cho đến lúc ấy, Disney va Thurber đều
chưa xuất hiện để làm cường điệu thêm sức sống lâu bền của loại
truyện ấy. Điều ngạc nhiên hơn là
Canby hoàn toàn không nhắc gì đến Stephen Crane, người đã khuất bóng
chín năm tính đến năm 1909, và cũng là người mà vào những năm 1890, qua các truyện ngắn của mình, đã vinh dự được tôn
xưng chẳng những là một trong số ít nhà văn viết truyện ngắn tài ba,
mà còn là người đâù tiên viết truyện ngắn hiện đại.
Crane là một
trong số các nhà văn mà cho đến khi qua đời, có quá ít truyện ngắn
hay nhất được đưa vào hợp tuyển.
Mặc dù có sức sáng tác phi thường, ông sống qúa vội vàng và
chết qúa trẻ, đến nỗi phần lớn những gì ông viết chắc chắn đều có
tỳ vết. Trong tất cả các truyện
ông viết, chỉ có truyện “The Open Boat” (Con Thuyền Mở), “The Blue Hotel” (Khách sạn màu xanh da
trời) và truyện “The Bride Comes to Yellow Sky” (Cô dâu đi đến Bầu Trời Vàng) là không có nhược hay khuyết điểm, và người soạn tuyển tập
phải chọn trong số các truyện này.
Chọn một truyện trong số ba truyện nói trên cũng là phục vụ
cho người đọc tốt lắm rồi, vì cả ba truyện đều tuyệt hảo cả. Còn
nếu loại bỏ hẳn tên Crane ra, hoặc giới thiệu ông bằng một truyện
ngắn khác không tuyệt hảo như thế thì mới thật có lỗi với độc giả,
và mới làm sai lệch hẳn truyền thống truyện ngắn.
Lý do là
Crane có mắt tạo hình ảnh thật xuất chúng (mà theo Bliss Perry là tố chất quan trọng hàng đầu của nhà viết
truyện ngắn). Trong truyện ngắn của ông, tất
cả đều gợi hình một cách mạnh mẽ, sinh động rõ ràng: hình ảnh
chói lòe trên trang giấy như các sự vật sáng rực qua tia chớp trên
trời. Tốc độ văn xuôi của ông khiến
chúng ta thấy hồi hộp, căng thẳng như chúng ta thường nghĩ về tính
cách đặc thù của nước Mỹ hiện đại.
Mặc dù Crane không bỏ được việc dùng ẩn dụ (metaphor) trong khi Hemingway tránh dùng nó,
không một nhà văn hiện đại nào có giọng văn gần với Crane bằng
Hemingway. Sức mạnh gợi cảm trong
truyện ngắn của Crane thật kiệt xuất, và người ta không thể nào tập
trung chuyên chú cao hơn mức Crane đạt được trong truyện “The Open Boat” (Chiếc thuyền không mui), với bối cảnh không gian không
vượt quá mạn thuyền, và thời gian chỉ kéo dài trong một chuyến đi;
diễn tiến câu truyện liên tục từ
câu mở đầu đẩy người đọc vào câu chuyện theo kiểu mở đầu được ca
ngợi hợp lý nhất: “Bộ không ai trong số chúng nó biết được bầu trời
màu gì à?”
Giả sử Crane
chỉ có cách tạo ấn tượng sinh động để đóng góp cho truyện ngắn, ông
cũng đã nổi tiếng trong lịch sử truyện ngắn rồi. Nhưng ông còn có một tâm hồn đồng điệu
với một thể xác tràn đầy hình ảnh và huyền thọai, cái bạn có thể
gọi là ký ức về chủng tộc hoặc sự kế thừa văn hóa hay một tên gọi
nào khác cũng được, chính cái đó
đã cho phép óc quan sát sự vật bên ngoài trong sáng nhất của ông
thường nói lên hết sức mạnh mẽ một cái gì đó sâu sắc hơn. Có vẻ như ông tình cờ thành một nhà
văn biểu tượng, đôi lúc có thể là vô ý thức. Ông không bao giờ gây ấn tượng cho người
đọc thấy ông viết cốt để tạo chiều sâu, giống như Hawthorne cố
làm. Ông vấp ngã, trầy trật với ý
nghĩa ông muốn diễn bày; chúng ngoi dậy từ nơi mảnh đất ông cày xới
như những viên đá bị băng giá cào bới lên. Theo phong cách của ông, ông là nhà đơn
giản vĩ đại; những nhân vật của Crane gần như thường tiếp cận một
cách siêu thực với không gian và cõi vĩnh hằng cùng vũ trụ lạnh
lùng. Nhưng nếu ông có một vị trí
nào đó trong văn chương, thì vị trí của một người đơn giản như ông
hẳn phải thuộc về thể loại truyện ngắn.
Phong cách Bohemian và khắc khổ của Crane, lối mai mỉa thường
thấy trong truyện của ông, tốc độ gây hồi hộp và những gợi ý về
chiều sâu tâm lý khiến ông trở thành nhà văn để lại ấn tượng đặc
biệt nơi người đọc hiện đại. Nếu
chính ông không ảnh hưởng tiến trình phát triển truyện ngắn chỉ một
lần, thì ông cũng phản ảnh được một sự thay đổi về tính cách,
giọng văn, và kỹ thuật viết vốn đã chớm khơi dậy từ những năm 1890, rồi bị gián đoạn bởi sự trỗi dậy của khuynh hướng
lãng mạn ướt át hồi đầu những năm 1990
và qua Đệ
Nhất thế chiến, một sự thay đổi mà sau này trở thành đặc thù của
văn hiện đại.
Giữa cái
chết của Crane năm 1900 và sự đột phá bắt đầu với tác phẩm Winesburg, Ohio của Sherwood Anderson năm 1919 chỉ có ba nhân vật đáng để chúng ta quan tâm chú ý đến. Một là Edith Wharton, người tiếp tục
truyền thống của James. Cho đến lúc bà không còn được độc giả
mến chuộng nữa sau năm 1917, bà
vẫn tiếp tục
truyền thống ấy một cách nghiêm túc, rõ ràng, và còn làm rạng danh
thêm cho James qua cảm thụ về thể loại truyện ngắn, đôi khi cảm thụ
một cách còn trực tiếp hơn cả James nữa.
Truyện “Roman Fever” (Cơn sốt La Mã), qua cách xử lý chủ đề “phổ biến” quen thuộc với sự tự
chế và kiểm soát, là một trong những truyện ngắn hay nhất của bà
mặc dù nó cũng nằm trong số những truyện cuối cùng bà viết. Những tác phẩm đặc trưng nhất của bà
lại quá dài không thể xếp vào tuyển tập truyện ngắn này được, đó
là các tiểu thuyết ngắn như Ethan
Frome, Bungey Sisters (Chị em nhà Bungey), và The Old Maid (Người tớ gái già).
Đây là những truyện đầy
thương tâm và để lại ấn tượng sâu sắc về những người bị đời sống
trói buộc. Ít nhà văn Mỹ nào, kể
cả nam lẫn nữ, lại thông minh và có ngòi bút khéo léo như bà.
Trong số hai
nhà văn viết truyện ngắn còn lại của thời kỳ trước thế chiến thứ
nhất, William Sydney Porter (O. Henry)
là người viết
chuyện cho các tạp chí được nhiều người mến mộ và có nhiều tài
năng hơn ông tự nhận đầy đủ về mình.
Trong bất cứ truyện nào của ông, tính nhạy bén và tài sử
dụng ngôn ngữ và nhân vật cũng trội hơn nét nghiêm trang hấp dẫn. Trong rất nhiều truyện ngắn của ông đều
có bóng dáng của kẻ lừa gạt khôn khéo.
Truyện “A Municipal Report” (Bản tường trình của thành phố) mà chúng tôi
cho in trong tập
này, là một trong số ít truyện ông tránh được lỗi viết vội vàng,
và thói quen hay sử dụng phong cách rối rắm khó hiểu, để thật sự
sống theo nguyên tắc của mình.
Người cuối
cùng trong số ba người là Wilbur Daniel Steele, nhà văn mà đến năm 1957 vẫn còn sống và sáng tác. Không dễ xếp loại ông, cũng không đồng
điệu với các thị hiếu và xu hướng thời đại, ông chưa hẳn là nhà văn
đúc kết lại ba thế hệ phát triển truyện ngắn, vì những truyện ngắn
hay nhất của ông vẫn còn giữ phong cách nhàn nhã từ tốn và cốt truyện
phức tạp của thời truyện ngắn thời kỳ đầu (nhiều truyện được chia thành hồi hoặc thành chương) thay vì được gom lại trong một diễn tiến duy nhất liên tục và
căng thẳng. Đồng thời để phục vụ
mục đích của mình, Steele cũng áp dụng tính hiếu kỳ về tâm lý (vốn điển hình cho truyện của James), ý thức rõ về địa điểm xảy ra
câu chuyện mà phong trào viết về bản sắc địa phương đã trau luyện cho
ông, và trường phái ấn tượng sáng chói vốn là dấu son lớn của
Crane. Trừ Edith Wharton ra, ông là
nhà viết truyện ngắn có tầm cỡ của Mỹ trước và trong thời thế
chiến thứ nhất. Khi cơn hạn hán kéo
dài đã qua đi, và những hứa hẹn của những năm 1890 đã được gìn giữ đúng cách, mọi
việc đến rất nhanh, và truyện ngắn của Mỹ, cùng với các thể loại
nghệ thuật khác, sẽ bùng nổ thành cái mà lịch sử có thể gọi là
thời kỳ huy hoàng nhất.
Nếu xét từng
truyện một thì các truyện trong Winesburg
, Ohio không tiêu biểu cho tác phẩm hay nhất và phong phú nhất của
Anderson, và chúng ta phải thừa nhận điều ấy bằng cách chọn một
truyện ngắn từ một tác phẩm khác là
The Triumph of the Egg (Sự Chiến Thắng Của Qủa Trứng). Nhưng xét chung thì cả hai tác
phẩm đều rất ấn tượng và đều được xem là quan trọng hàng đầu trong các
tác phẩm của Sherwood Anderson.
Những truyện ấy mang tính cách tân không chỉ vì bất chấp khuôn
mẫu đạo đức thông thường. Sự phản
đối mãnh liệt những truyện ấy gợi lên thậm chí có thể phần nào
mang tính thẩm mỹ kín đáo, vì xét theo tiêu chuẩn quy ước thì chúng
không hẳn là truyện ngắn, ngay bạn của Anderson, Floyd Dell, Mencken, và
những nhà điểm sách cũng nói như vậy.
Chúng là những mô tả ngắn về các mảnh đời bị chôn kín, là
sự thoi thóp của các khát vọng bị dồn nén, là nét phác họa về
các nhân vật bị qụy ngã trong cách hành xử kiểu bộ lạc thôn xóm,
là những ghi nhận chớp nhóang về nỗi dằn vặt đằng sau tấm màn che
được kéo xuống (và thỉnh thỏang được vén lên). Chúng không chỉ không có cốt
truyện hẳn hoi, chúng còn không sử dụng cả cách gây ấn tượng gợi
cảm mà cả Crane lẫn Steele từng dùng để tạo dấu ấn chỉ qua hình
ảnh sống động. Những truyện này
của Anderson diễn ra lặng lẽ, như sự vật trong đêm tối. Cho đến nay những độc giả ngưỡng mộ
nồng hậu truyện của ông cũng không thể nói rõ chúng ảnh hưởng đến
họ như thế nào. Văn phong của ông
đơn điệu, ông sử dụng phương pháp kể chuyện hơn là tạo kịch
tính. Vậy mà các nhân vật trong Winesburg nhìn có vẻ như người mang
nỗi xấu hổ khủng khiếp của kẻ bị bắt gặp đang vướng vào một
chuyện riêng tư gì đó không nói được.
Những tình cảm bị dồn nén trong đời họ tuôn trào như những
tiếng rên khóc, khiến người ta chú ý và thương cảm, trong khi những
nhân vật được khéo dựng lên và điều khiển lại không tạo được nơi
người đọc. Rõ ràng ở đây ta thấy
Anderson chịu ảnh hưởng mạnh của Chekhov: Chekhov là một trong những
nhà văn mới và thú vị đã làm choáng ngợp tâm tư Anderson, và cũng
không phải hoàn toàn vô lý khi một nhà điểm truyện sau này gọi
Anderson là “Chekhov tuổi dậy thì.”
Có thể nói một cách chính xác rằng chính tính đồng điệu
mạnh mẽ với Chekhov này đã làm tập truyện ngắn Winesburg , Ohio trở thành nổi tiếng—William Faukner nói nó
là sáng tác nổi tiếng nhất của Anderson.
Chúng tôi đã chọn “Unlighted Lamps” (Những ngọn đèn mù/không được thắp
sáng) vì, ngoài chủ đề thất vọng, mất
mát, khát khao và uổng phí của kiếp con người vốn là linh hồn của
tập Winesburg, nó còn chứa đựng bối cảnh phong phú
về khu hội chợ trong quận hạt và
bãi đua ngựa thường thấy trong các truyện khác (không thuộc tập Winesburg) của ông.
Chỉ riêng truyện này cũng đủ để đại diện, và là đại diện tốt, cho nhà văn
Anderson.
Sau Anderson một trận triều dâng vĩ đại đã đến với truyện ngắn Mỹ. Hai trong số những tiểu thuyết gia chính của thế kỷ 20, Theodore Dreiser và Sinclair Lewis, lại không bao giờ thành công với truyện ngắn, nhưng chúng ta hãy xét đến các nhà văn nổi tiếng về thể loại này như Fitzgerald, Hemingway, Faulkner, Katherine Anne Porter, Steele, Lardner, và thêm vào đó là Edith Wharton, Willa Cather và Ellen Glasgow, những người vẫn đều đặn sáng tác, dù tài năng chưa rực sáng bằng. Chỉ riêng thể loại truyện ngắn những năm 1920 cũng đã đáng kể rồi. Hỗ trợ cho những nhà văn nổi tiếng, vây quanh họ như những miếng gỗ bào dùng để đệm chặt một cái hộp, là một đội ngũ nhà văn tuy không nổi tiếng bằng nhưng rất đông đảo và đầy tài năng khiến chúng ta phải kinh ngạc, mà từ tác phẩm của họ và để cạnh tranh với họ, những cây bút xuất sắc đã nở rộ. Bạn không thể mài rìu trên một bánh xe làm bằng phó mát; bạn cũng không thể đào tạo được những nhà văn vĩ đại nếu không có áp lực của một dàn tài năng vững vàng cạnh tranh với nhau. Chính từ những nhà văn đứng hàng thứ hai cũng như từ những nhà văn nổi tiếng ấy mà truyện ngắn có được chất lượng tốt như thế.
Chắc chắn
những nhà văn lớn đã làm họ trở nên nổi tiếng. Từ những truyện đầu tay của mình dù
khi gửi đăng bị một số chủ bút từ chối vì chúng chỉ là ký sự
ngắn, Hemingway đã để ấn tượng sâu
đậm nơi những người biết đến ông như một người rõ ràng là rất đặc
biệt. Những tác phẩm đầu tay của
ông, Three
Stories and Ten Poems (Ba Câu Truyện và Mười Bài Thơ) va In Our Time (Thời của Chúng Ta) chỉ là cái để thử trước khi cái thực sự xuất hiện; ấy vậy mà
ai ai cũng đã cảm thấy một tài năng vĩ đại sẽ xuất hiện như Edmund
Wilson đã xác chứng trong bài bình duyệt của ông đăng trong The Dial *số tháng 10, 1924. Như William Faulkner đã nói, có lẽ Hemingway đã sớm khám phá điều
ông có thể làm, và đã tiếp tục đeo đuổi nó, nhưng đó chính là
nhược điểm của ông: ông thiếu táo bạo.
Mặt khác, đa số độc giả đều thấy
nhiều dấu hiệu tiến bộ và phát triển từ truyện “Up in
Michigan” và các bài viết ngắn đầu tay đăng trong In Our Time đến The Snows of Kilimanjaro (Tuyết Trên Đỉnh Kilimanjaro), hoặc The Old Man and the Sea (Ngư Ông và Biển Cả). Hòa quyện vào những thay đổi
này là bằng chứng cho thấy Hemingway, giống như Chekhov và James, càng
ngày càng mài dũa bớt những ước thúc giả tạo của truyện ngắn, và
dần dần tiến gần đến loại “tiểu thuyết ngắn được ban ân huệ” của
James. Những truyện đầu tay của
Hemingway là các bài viết ngắn không đến một trang; còn truyện cuối
cùng của ông, dù cũng thuộc thể loại truyện ngắn, lại dài như một
quyển sách nhỏ. Đó là một quãng
đường dài từ những gì ông viết khi còn là một phóng viên trẻ ở
Paris và học cách “bắt đầu bằng những điều đơn giản nhất.”
Mọi khảo
lược về truyện ngắn Mỹ đều không thể bỏ qua phần luận bàn về ảnh
hưởng to lớn của đặc điểm cô đọng và tính khách quan của Hemingway,
cũng như hư vô chủ nghĩa đầy tính triết học trong giai đoạn ban đầu,
và quy ước khắc khổ, những cái đã tạo nên mặt nạ tiện lợi cho
những kẻ bắt chước ông suốt 25
năm. Do đó chúng ta càng thấy tiếc khi cả
Hemingway lẫn Ring Lardner, cũng là một nhà viết truyện lớn khác
thuộc những năm 20 hiện nay đều không được nhà xuất
bản của mình tái bản truyện ngắn với loại bìa mềm. Nếu Hemingway cho chúng ta một thế hệ
những người trẻ khắc khổ ít nói, lì lợm, ăn nói ngang tàng, không
thích những gì bóng gió hoặc “đưa
đẩy,” ông cũng là người, hơn ai hết kể từ Stephen Crane, đã làm sáng
tỏ quá trình tạo ấn tượng, và “trình tự của các diễn tiến câu
truyện cùng các sự kiện góp phần tạo nên cảm xúc.”
Nhà văn lừng
danh đồng thời với Hemingway và cũng đoạt giải Nobel văn chương như ông,
William Faulkner, đã đem lại cho truyện ngắn một nét khác. Dù ông tự sáng tạo ra, hay miền Nam tạo
ra một màn sương và các nhà văn chỉ theo đó diễn đạt, Faulkner vẫn là cha đẻ của trường phái
Gothic mới, đặc thù miền Nam. Ông
sử dụng một ngòi bút méo mó, xây dựng những nhân vật kỳ quặc, và
cũng không ngần ngại phủ choàng lên một số cảnh trong truyện của ông
để đạt hiệu ứng Gothic đầy kịch tính cao nhất. Tuy nhiên, Faulkner còn cách xa Poe nhiều. Giống như thuật phù phép của Hawthorne,
tính méo mó, bạo lực, với những xác đang mục rữa của Faulkner gắn
sát với thực tế xã hội. Giống
Hawthorne, ông là nhà mổ xẻ tội lỗi con người; giống Poe, ông là
người sống về “ban đêm,” là người tạo ra các cơn ác mộng, bởi vì
trong thế giới của Faulkner tội lỗi nguyên thủy về nạn nô lệ da đen
khiến mọi người phải mất ngủ, làm biến thái nhân vật và khiến tâm
hồn trở nên méo mó. Dù người ta
có nhìn nhận toàn bộ tác phẩm của ông là phản ánh sự xuống dốc
và mục nát của miền Nam sau Nội chiến, và, tới một mức độ nào đó,
không cần phải đặt câu hỏi, người ta phải thừa nhận rằng ông đã “tạo
ra một thế giới riêng biệt.”
Tưởng cũng
không cần thiết phải nói thêm gì nữa về truyện ngắn. Cho đến nay những ý tưởng cải tiến kỹ
thuật viết truyện ngắn của Poe, James, Anderson, Crane, Hemingway, và
Faulkner —cùng với đóng góp của Chekhov, Kipling, Joyce và Mansfield— đã
trở thành tài sản của mọi người.
Phương ngữ, cái mà một thời đã là phương tiện chuyển tải nét
hài hước và sau đó phong cách địa phương, đã chứng tỏ cho chúng ta
thấy nó có thể hòa nhập vào được với các tình huống nghiêm túc,
thậm chí chua chát qua ngòi bút Anderson và Ring Lardner, qua những tác
phẩm nhỏ thanh thoát của Katherine Ann Porter, qua nét vẽ tinh tế và
với thị hiếu cao tuyệt của James hay khuynh hướng Gothic miền Nam, hoặc
qua cái gọi là trường phái nhạy cảm của phụ nữ, nhưng phương ngữ
lại tránh được sự thái qúa của những cái đó, và dần dần nói lên
cho chúng ta thấy giá trị thực sự và vị trí xứng đáng của nghệ
thuật truyện ngắn. Eudora Welty, nhà
văn đầy tài năng ứng xảo tuyệt vời, đã học được từ Katherine
Mansfield, James, Faulkner, Porter, và bà đã viết về những điều kỳ
quặc pha trộn cả hài lẫn bi với kỹ xảo tầm cỡ như Faulkner.
Cần phải chú
ý mặc dù tiểu thuyết có vẻ xuống dốc từ đỉnh cao những năm 1920 và đầu những năm 1930, riêng truyện ngắn không hề cho ta
thấy dấu hiệu nào nó đã kiệt sức hoặc không rõ hướng đi. Khi
những người hiếu kỳ trên thế giới hỏi chúng ta ai là nhà văn trẻ và
giỏi của Mỹ, những người nối gót Hemingway, Faulkner, Fitzgerald,
Wolfe, và Steinbeck, chúng ta có thể gặp khó khăn không tìm đủ người
thay thế cho những tiểu thuyết gia đó, nhưng chúng ta lại ít gặp khó
khăn khi nêu tên những nhà văn trẻ tuổi viết truyện ngắn xứng đáng so
với các bậc tiền bối của họ.
Trong tuyển tập này chúng tôi chỉ xin giới thiệu qua một vài
nhà văn như thế, để chỉ ra rằng truyền thống truyện ngắn, vốn đã
đạt đến đỉnh cao những năm 1920, từ lúc ấy đến giờ đã tiến đến
đâu.
Chính qua
truyện ngắn chúng ta mới thấy rõ người Mỹ chúng ta, bởi vì chúng
cho chúng ta ngàn mắt, ngàn cách nhìn, ngàn tình huống kể chuyện,
và ngàn giây phút giúp chúng ta hiểu rõ mình hơn. Điều mà truyện ngắn hiện đại nhắm vào
có lẽ là một sự soi sáng, chứ không hẳn là một cú sốc hay “hiệu
ứng”: Kể từ Poe, phải nói chúng ta
đã đi được một bước dài. Về chủ
đề, truyện ngắn nay đã bàn rộng rãi đến ngõ ngách biên địa của đời
sống chúng ta: thoạt đầu do các
nhà văn viết về đặc điểm, màu sắc địa
phương giúp phát triển bao gồm mọi miền địa lý và con người,
tiếp đến nhờ Anderson cùng các nhà văn nối gót ông bành trướng thêm
để đi vào những hành vi con người trước đây bị cấm kỵ, và rồi được
các nhà văn về sau khai thác cả đến vùng vô thức của con người.
--
* The Dial là tạp chí phê bình văn học của
Mỹ từ 1840 đến 1929.
******
Nguồn:
"Lời Mở Đầu" của Wallace và Mary Stegner, hai tác giả đã tuyển chọn các truyện ngắn in trong Great American Short Stories --- Tuyển Tập Truyện Ngắn Nổi tiếng Của Mỹ (New York, NY: DELL Publishing Company, Inc., 1957).
Wallace Stegner là nhà văn viết truyện ngắn nổi bật, tác giả nhiều tiểu thuyết, trong số đó có tác phẩm tự truyện Ngọn Núi Lớn Rock Candy (1943)/The Big Rock Candy Mountain; ông cũng là cộng tác viên thường xuyên cho một số tạp chí trên toàn nước Mỹ. Ông là nhà giáo dục và từng giữ chức vụ lãnh đạo Trung Tâm Đào Tạo Sáng Tác Văn Học tại Stanford University. Vợ ông, bà Mary Stegner, là cộng sự đắc lực trong họat động văn học chồng, va nhiều năm bà là chủ bút cho nhà xuất bản Houghton Mifflin tại trụ sở đặt ở miền Tây nước Mỹ.
******
Nguồn:
"Lời Mở Đầu" của Wallace và Mary Stegner, hai tác giả đã tuyển chọn các truyện ngắn in trong Great American Short Stories --- Tuyển Tập Truyện Ngắn Nổi tiếng Của Mỹ (New York, NY: DELL Publishing Company, Inc., 1957).
Wallace Stegner là nhà văn viết truyện ngắn nổi bật, tác giả nhiều tiểu thuyết, trong số đó có tác phẩm tự truyện Ngọn Núi Lớn Rock Candy (1943)/The Big Rock Candy Mountain; ông cũng là cộng tác viên thường xuyên cho một số tạp chí trên toàn nước Mỹ. Ông là nhà giáo dục và từng giữ chức vụ lãnh đạo Trung Tâm Đào Tạo Sáng Tác Văn Học tại Stanford University. Vợ ông, bà Mary Stegner, là cộng sự đắc lực trong họat động văn học chồng, va nhiều năm bà là chủ bút cho nhà xuất bản Houghton Mifflin tại trụ sở đặt ở miền Tây nước Mỹ.
No comments:
Post a Comment
Note: Only a member of this blog may post a comment.