Tôi đang mãi suy nghĩ
về nghi lễ tôn giáo hoang sơ nói trong tác phẩm ấy, và ảnh hưởng có
thể có của nó lên người bạn lo sợ thái quá về bệnh của mình thì
một tối nọ, sau khi đột ngột báo cho tôi biết cô Madeline đã qua đời,
bạn tôi nói lên ý của anh muốn giữ xác cô ấy lại khoảng hai
tuần (trước khi đem chôn) nơi một căn phòng trong số rất nhiều
phòng ẩn sâu giữa các tường thành bao quanh tòa nhà. Tuy
nhiên, lý do phức tạp để tiến hành tiến trình có một không hai này
là một lý do mà tôi cảm thấy mình không được phép bàn cãi
lại. Người anh, khi nghĩ đến tính cách kỳ lạ của căn
bệnh mà cô em quá cố mắc phải, đã tìm đến một giải pháp (anh
nói với tôi như thế) trước những thắc mắc lộ liễu và dai dẳng
từ phía mấy người điều trị cho cô em, và trước tình hình khu đất
chôn xa xôi và không kín đáo của gia đình anh. Tôi không phủ
nhận rằng, khi nhớ lại gương mặt lấm lét của người bác sĩ mà tôi
gặp nơi cầu thang hôm tôi mới đến nhà anh bạn, tôi không hề muốn phản
đối giải pháp của anh, một giải pháp tôi cho là thận trọng vô hại
trong tình huống thuận lợi nhất, dù chắc chắn giải pháp đó
không bình thường.
Theo yêu cầu của Usher, đích thân tôi giúp anh thu xếp việc chôn cất tạm thời. Xác cô em đã được khâm liệm, và chúng tôi đưa xác đến nơi an nghỉ. Nơi chúng tôi đặt quan tài vào là một hầm mộ nhỏ, ẩm thấp, và ánh sáng hoàn toàn không thể rọi vào được (đã lâu lắm rồi hầm mộ ấy không ai mở ra, nên các ngọn đuốc của chúng tôi có phần bị ngộp bởi bầu không khí ngột ngạt trong đó, làm cho chúng tôi không thấy rõ để có thể nhìn kỹ hầm mộ). Hầm mộ ấy nằm rất sâu ngay bên dưới căn phòng tôi ngủ trong tòa lâu đài. Vào thời phong kiến xa xưa, dường như nó đã được dùng vào những mục đích tồi tệ nhất của thành lũy chính, rồi về sau nó trở thành chỗ chứa thuốc súng hoặc một số chất dễ cháy, vì một phần sàn nhà của tầng hầm, và toàn bộ phần bên trong của lối đi hình vòm cung trải dài mà chúng tôi phải đi qua để đến hầm đều được bọc bằng đồng. Cánh cửa đồ sộ bằng sắt cũng được bảo vệ tương tự như thế. Khi cửa hầm di chuyển quanh bản lề, sức nặng của nó gây ra một âm thanh kẽo kẹt lạ lùng cưc kỳ chói tai.
Sau khi đã đặt quan tài lên dàn khung trong hầm mộ, chúng tôi hé nắp quan chưa đóng đinh để nhìn gương mặt của người quá cố. Bấy giờ nét giống nhau của hai anh em lần đầu tiên làm tôi chú ý. Usher có lẽ đoán được tư tưởng của tôi, anh lẩm bẩm vài lời mà qua đó tôi được biết thêm là người quá cố và anh là hai anh em sinh đôi; và giữa hai người có một sự đồng cảm rất khó hiểu. Dẫu vậy, chúng tôi không nhìn người chết lâu vì chúng tôi không thể không kính sợ cô ấy. Như thường thấy ở tất cả các chứng bệnh gây động kinh, căn bệnh khiến cô lìa đời ở tuổi trưởng thành mỉa mai thay đã để lại nét hồng hào trên ngực và trên gương mặt, với nụ cười như còn phảng phất trên môi người chết trông thật dễ sợ. Chúng tôi đậy quan tài lại như cũ và vặn đinh ốc nắp hòm. Sau khi đã đóng kỹ cửa sắt, chúng tôi mệt mỏi trở về chỗ ở không kém phần u ám của mình ở tầng trên tòa nhà.
Giờ đây, khi vài ngày đau buồn đã trôi qua, tôi có thể thấy được sự thay đổi nơi nét rối loạn tâm thần của bạn mình. Điệu bộ thường thấy của anh ấy đã biến mất. Anh không buồn làm, hoặc anh đã quên hẳn, những công việc anh thường làm trước đây. Anh rảo bước từ phòng này đến phòng kia, một cách vội vã, bồn chồn, vô định. Gương mặt xanh xao của anh nhuốm vẻ bệnh hoạn dễ sợ, còn ánh mắt sáng giờ đã hoàn toàn lụi tắt. Giọng nói khàn khàn của anh trước đây tôi còn nghe thấy cũng đã lặng tiếng; và miệng anh chỉ thốt ra những lời lắp bắp, run run như đang hoảng sợ. Quả thật có những lúc tôi nghĩ rằng tâm tư bồn chồn xao xuyến không ngừng của anh đang khốn khổ vật lộn với một điều bí ẩn đè nặng và anh phải đấu tranh, thu hết can đảm để nói ra điều đó. Lại có lúc tôi phải đổ thừa tất cả chẳng qua chỉ do sự điên loạn bất thường không thể lý giải được nơi bạn tôi, bởi vì tôi thấy anh nhìn vào khoảng trống cả giờ, thái độ cực kỳ chăm chú, như thể anh đang lắng tai nghe một thứ âm thanh tưởng tượng nào đó. Không còn kinh ngạc gì khi tình trạng của anh ấy đã lây sang tôi, khiến tôi đâm sợ hãi. Tôi cảm thấy những ảnh hưởng man dại do óc mê tín kỳ lạ và đầy ấn tượng của anh đang len lỏi vào người tôi một cách từ từ nhưng chắn chắn.
Một tối khi lên giường ngủ, vào khoảng bảy hoặc tám ngày sau khi đưa cô Madeline vào hầm sâu dưới tòa lâu đài, thật kỳ lạ, tôi nghiệm thấy sức mạnh của những cảm xúc ấy thật rõ ràng. Giấc ngủ không đến với tôi được, và giờ này đến giờ kia cứ thế trôi qua. Tôi cố sức suy nghĩ để tìm hiểu lý do vì sao tôi lại bị nỗi hồi hộp lo sợ đè nặng tâm tư. Tôi cố gắng tin rằng phần lớn, nếu không nói là tất cả, những gì tôi cảm thấy đều do ảnh hưởng của đồ đạc u ám trong căn phòng gây ra --những tấm màn sẫm màu, tả tơi, đang bị ngọn gió bão mới nổi lên hành hạ từng cơn, bay tới bay lui phần phật trên vách tường, tạo nên tiếng sột soạt khó chịu khi chúng chạm vào những vật trang trí nơi chiếc giường. Nhưng những cố gắng lý giải của tôi đều không mang lại kết quả. Toàn thân tôi dần dần rung lên không cưỡng lại được; và cuối cùng trên tim tôi như có con quỷ tôi hoàn toàn không biết từ đâu đến đang đè lên. Miệng há hốc và cố vùng vẫy để thoát khỏi nó, tôi bật người ra khỏi chiếc gối tôi đang nằm, mắt chăm chăm nhìn vào khoảng không đen tối của căn phòng, lắng tai nghe ngóng --tôi không rõ vì sao, ngoại trừ có một cái bóng không rõ ràng thúc dục tôi làm thế--những âm thanh nho nhỏ, mơ hồ nào đó, không biết từ đâu từng chập vọng đến mỗi khi tiếng gió bão dịu xuống. Lòng vô cùng hồi hộp lo sợ, không biết vì sao và cũng không thể chịu nổi, tôi vội vã thay áo quần (vì tôi cảm thấy đêm ấy tôi không thể ngủ được nữa), và, để ra khỏi trạng thái đáng thương tôi đang bị lâm vào, tôi cố vực mình tỉnh dậy bằng cách đi tới đi lui thật nhanh trong căn phòng.
Tôi đi như thế được vài vòng thì nơi cầu thang bên cạnh có tiếng chân bước nhẹ làm tôi chú ý. Tôi liền nhận ra đó là bước chân của Usher. Chậ̣p sau anh gõ nhẹ lên cửa phòng tôi, rồi bước vào, tay cầm đèn. Mặt anh vẫn xanh mét như người chết –nhưng đôi mắt lộ nét hớn hở điên dại, rõ ràng trông anh có vẻ đang bị kích động mạnh nhưng cố kềm chế lại. Dáng điệu của anh khiến tôi sửng sốt –nhưng tôi chịu đựng sự cô quạnh đã quá lâu nên nếu có cái gì khác tôi cũng thấy thích hơn, và tôi đón nhận sự hiện diện của anh như một niềm khuây khỏa cho mình.
Theo yêu cầu của Usher, đích thân tôi giúp anh thu xếp việc chôn cất tạm thời. Xác cô em đã được khâm liệm, và chúng tôi đưa xác đến nơi an nghỉ. Nơi chúng tôi đặt quan tài vào là một hầm mộ nhỏ, ẩm thấp, và ánh sáng hoàn toàn không thể rọi vào được (đã lâu lắm rồi hầm mộ ấy không ai mở ra, nên các ngọn đuốc của chúng tôi có phần bị ngộp bởi bầu không khí ngột ngạt trong đó, làm cho chúng tôi không thấy rõ để có thể nhìn kỹ hầm mộ). Hầm mộ ấy nằm rất sâu ngay bên dưới căn phòng tôi ngủ trong tòa lâu đài. Vào thời phong kiến xa xưa, dường như nó đã được dùng vào những mục đích tồi tệ nhất của thành lũy chính, rồi về sau nó trở thành chỗ chứa thuốc súng hoặc một số chất dễ cháy, vì một phần sàn nhà của tầng hầm, và toàn bộ phần bên trong của lối đi hình vòm cung trải dài mà chúng tôi phải đi qua để đến hầm đều được bọc bằng đồng. Cánh cửa đồ sộ bằng sắt cũng được bảo vệ tương tự như thế. Khi cửa hầm di chuyển quanh bản lề, sức nặng của nó gây ra một âm thanh kẽo kẹt lạ lùng cưc kỳ chói tai.
Sau khi đã đặt quan tài lên dàn khung trong hầm mộ, chúng tôi hé nắp quan chưa đóng đinh để nhìn gương mặt của người quá cố. Bấy giờ nét giống nhau của hai anh em lần đầu tiên làm tôi chú ý. Usher có lẽ đoán được tư tưởng của tôi, anh lẩm bẩm vài lời mà qua đó tôi được biết thêm là người quá cố và anh là hai anh em sinh đôi; và giữa hai người có một sự đồng cảm rất khó hiểu. Dẫu vậy, chúng tôi không nhìn người chết lâu vì chúng tôi không thể không kính sợ cô ấy. Như thường thấy ở tất cả các chứng bệnh gây động kinh, căn bệnh khiến cô lìa đời ở tuổi trưởng thành mỉa mai thay đã để lại nét hồng hào trên ngực và trên gương mặt, với nụ cười như còn phảng phất trên môi người chết trông thật dễ sợ. Chúng tôi đậy quan tài lại như cũ và vặn đinh ốc nắp hòm. Sau khi đã đóng kỹ cửa sắt, chúng tôi mệt mỏi trở về chỗ ở không kém phần u ám của mình ở tầng trên tòa nhà.
Giờ đây, khi vài ngày đau buồn đã trôi qua, tôi có thể thấy được sự thay đổi nơi nét rối loạn tâm thần của bạn mình. Điệu bộ thường thấy của anh ấy đã biến mất. Anh không buồn làm, hoặc anh đã quên hẳn, những công việc anh thường làm trước đây. Anh rảo bước từ phòng này đến phòng kia, một cách vội vã, bồn chồn, vô định. Gương mặt xanh xao của anh nhuốm vẻ bệnh hoạn dễ sợ, còn ánh mắt sáng giờ đã hoàn toàn lụi tắt. Giọng nói khàn khàn của anh trước đây tôi còn nghe thấy cũng đã lặng tiếng; và miệng anh chỉ thốt ra những lời lắp bắp, run run như đang hoảng sợ. Quả thật có những lúc tôi nghĩ rằng tâm tư bồn chồn xao xuyến không ngừng của anh đang khốn khổ vật lộn với một điều bí ẩn đè nặng và anh phải đấu tranh, thu hết can đảm để nói ra điều đó. Lại có lúc tôi phải đổ thừa tất cả chẳng qua chỉ do sự điên loạn bất thường không thể lý giải được nơi bạn tôi, bởi vì tôi thấy anh nhìn vào khoảng trống cả giờ, thái độ cực kỳ chăm chú, như thể anh đang lắng tai nghe một thứ âm thanh tưởng tượng nào đó. Không còn kinh ngạc gì khi tình trạng của anh ấy đã lây sang tôi, khiến tôi đâm sợ hãi. Tôi cảm thấy những ảnh hưởng man dại do óc mê tín kỳ lạ và đầy ấn tượng của anh đang len lỏi vào người tôi một cách từ từ nhưng chắn chắn.
Một tối khi lên giường ngủ, vào khoảng bảy hoặc tám ngày sau khi đưa cô Madeline vào hầm sâu dưới tòa lâu đài, thật kỳ lạ, tôi nghiệm thấy sức mạnh của những cảm xúc ấy thật rõ ràng. Giấc ngủ không đến với tôi được, và giờ này đến giờ kia cứ thế trôi qua. Tôi cố sức suy nghĩ để tìm hiểu lý do vì sao tôi lại bị nỗi hồi hộp lo sợ đè nặng tâm tư. Tôi cố gắng tin rằng phần lớn, nếu không nói là tất cả, những gì tôi cảm thấy đều do ảnh hưởng của đồ đạc u ám trong căn phòng gây ra --những tấm màn sẫm màu, tả tơi, đang bị ngọn gió bão mới nổi lên hành hạ từng cơn, bay tới bay lui phần phật trên vách tường, tạo nên tiếng sột soạt khó chịu khi chúng chạm vào những vật trang trí nơi chiếc giường. Nhưng những cố gắng lý giải của tôi đều không mang lại kết quả. Toàn thân tôi dần dần rung lên không cưỡng lại được; và cuối cùng trên tim tôi như có con quỷ tôi hoàn toàn không biết từ đâu đến đang đè lên. Miệng há hốc và cố vùng vẫy để thoát khỏi nó, tôi bật người ra khỏi chiếc gối tôi đang nằm, mắt chăm chăm nhìn vào khoảng không đen tối của căn phòng, lắng tai nghe ngóng --tôi không rõ vì sao, ngoại trừ có một cái bóng không rõ ràng thúc dục tôi làm thế--những âm thanh nho nhỏ, mơ hồ nào đó, không biết từ đâu từng chập vọng đến mỗi khi tiếng gió bão dịu xuống. Lòng vô cùng hồi hộp lo sợ, không biết vì sao và cũng không thể chịu nổi, tôi vội vã thay áo quần (vì tôi cảm thấy đêm ấy tôi không thể ngủ được nữa), và, để ra khỏi trạng thái đáng thương tôi đang bị lâm vào, tôi cố vực mình tỉnh dậy bằng cách đi tới đi lui thật nhanh trong căn phòng.
Tôi đi như thế được vài vòng thì nơi cầu thang bên cạnh có tiếng chân bước nhẹ làm tôi chú ý. Tôi liền nhận ra đó là bước chân của Usher. Chậ̣p sau anh gõ nhẹ lên cửa phòng tôi, rồi bước vào, tay cầm đèn. Mặt anh vẫn xanh mét như người chết –nhưng đôi mắt lộ nét hớn hở điên dại, rõ ràng trông anh có vẻ đang bị kích động mạnh nhưng cố kềm chế lại. Dáng điệu của anh khiến tôi sửng sốt –nhưng tôi chịu đựng sự cô quạnh đã quá lâu nên nếu có cái gì khác tôi cũng thấy thích hơn, và tôi đón nhận sự hiện diện của anh như một niềm khuây khỏa cho mình.
“Anh có thấy nó
không?” Usher cất tiếng sau khi im lặng nhìn quanh giây
lát. “Vậy là anh chưa thấy nó sao? –nhưng hãy ở đây! Anh sẽ thấy.” Miệng vừa nói, anh vừa lấy tay
che ngọn đèn một cách cẩn thận, và vội vã đi đến cửa sổ, mở toang
nó ra trong khi bên ngoài trời đang gió bão.
Ngọn cuồng phong ùa
vào dữ dội gần như nhấc bỗng hai chúng tôi
lên. Quả thật tối hôm đó trời tuy giông tố nhưng lại có nét
đẹp uy nghiêm, một đêm vừa kinh dị vừa tuyệt hảo man rợ có một không
hai. Một cơn lốc đang tập trung trong vùng lân cận, vì hướng
gió cứ thay đổi từng cơn giật mạnh; và mây đen dày đặc (giăng thấp đến độ đè lên cả các tháp nhỏ trên
nóc lâu đài) cũng không thể ngăn chúng tôi
không cảm thấy tốc lực vũ bão của những đám mây từ tứ phía đang ùn
ùn lao vào nhau, chứ không phải trôi đi xa. Tôi phải nói ngay cả độ
dày đặc của mây đen cũng không cản nổi chúng tôi cảm nhận như thế;
chúng tôi không thấy bóng mặt trăng hay chút ánh sao, cũng không hề
thấy lóe lên một tia chớp nào. Nhưng cả một khối hơi bất an
khổng lồ bên dưới đám mây đen, cũng như tất cả mọi vật trên mặt đất
nằm ngay chung quanh chúng tôi đều rực lên dưới một thứ ánh sáng kỳ
lạ tỏa ra từ một làn hơi nhẹ nhưng chúng tôi có thể thấy rõ đang bao
phủ lên cả tòa lâu đài.
“Không được –tôi
không muốn anh nhìn cái này!” tôi rung người lên nói với Usher,
vừa nói vừa kéo anh đi từ cửa sổ về chỗ ghế ngồi. “Những
cảnh tượng này là những hiện tượng điện từ, không có gì lạ cả, và
chúng chỉ làm anh rối trí thêm, hoặc cũng có thể nguồn gốc ghê rợn
của chúng là làn ám khí * bốc lên từ cái hồ nước
ấy. Chúng ta hãy đóng cửa sổ lại; khí lạnh này có hại
cho cơ thể của anh. Đây là một trong số những tiểu thuyết
anh thích nhất. Tôi sẽ đọc cho anh nghe; --và chúng ta sẽ
cùng nhau sống qua đêm kinh khủng này như thế.”
Quyển sách cổ xưa tôi
lấy lên đọc có tựa là Mad Trist** của
Ngài Launcelot Canning; nhưng tôi nói nó là một trong những
quyển truyện Usher yêu thích nhất là nói bông đùa*** chứ thực sự
không như vậy, bởi vì thật ra vẻ thiếu tinh tế và trí tưởng tượng
nghèo nàn trong truyện khó hấp dẫn đối với tâm tư thiên hướng cao cả
và thiên về tâm linh của bạn tôi. Tuy vậy, đó là quyển sách
duy nhất nằm ngay trong tầm tay; và tôi có chút hy vọng mong
manh là sự bồn chồn khiến anh bạn lo âu thái quá của tôi không
yên (bởi vì lịch sử về bệnh tâm thần đầy rẫy những điều bất
thường như thế) có thể vơi đi khi anh nghe những điều ngốc nghếch
tôi đọc. Quả thật vậy, nếu người ta đánh giá tôi qua vẻ
chăm chú sinh động khi anh lắng nghe, hay có vẻ như đang lắng nghe, thì
tôi có thể tự khen mình đã thành công khi nghĩ ra cách đọc sách cho
anh như thế.
-----
*rank = foul-smelling; mùi hôi, ám
khí
**
Mad
Trist tả lại việc Ethelred xông vào chỗ
ở của một người ẩn dật; phản ảnh sự kiện Madeline lúc bấy giờ đang
vùng thóat ra khỏi hầm mộ của cô
“Mad Trist,”
which is about the forceful entrance of Ethelred into the dwelling of a hermit,
mirrors the simultaneous escape of Madeline from her tomb. “Mad Trist”
spookily crosses literary borders, as though Roderick's obsession with these
poems [“The Haunted Palace” and “Mad Trist”] ushers their narratives into his own domain and brings them to life.
***
Sad Jest:
Tôi đọc
đến phần hay nhất của câu truyện khi đó Ethelred, vị anh hùng của
thành Trist, sau khi đã hoài công tìm cách đi vào chỗ ở của vị ẩn
sĩ một cách bình an, tiến đến dùng vũ lực để vào cho được.
---
The story features numerous allusions to other works of
literature, including the poems “The Haunted Palace” and “Mad Trist” by Sir
Launcelot Canning. Poe composed them himself and then fictitiously attributed
them to other sources. Both poems parallel and thus predict the plot line of “The
Fall of the House of Usher.”
----
Dưới đây là những lời trong câu truyện mà người ta
sẽ nhớ mãi:
“Và Ethelred, với
trái tim kiên cường, giờ đây lại thêm dũng mãnh, nhờ sức mạnh do rượu
nho chàng uống, không thể chờ để đến diện kiến vị ẩn sĩ nữa; thực ra,
chàng đã chuyển thành ngang tàng và hiểm ác, nhưng cảm thấy giọt mưa
rơi trên vai và e sợ trời sẽ nổi cơn giông, chàng lập tức nhấc cao cái
chùy, đập mạnh vào các tấm gỗ nơi cánh cửa đủ để có chỗ cho bàn
tay đeo găng bọc sắt của chàng có thể thò tay vào trong giật cửa thật mạnh; thế là chàng làm cánh
cửa nứt toạc ra, tiếng gỗ khô bọng ruột vang dội kinh động cả khu
rừng.”
Khi vừa đọc
xong câu này tôi giật mình, và dừng lại giây lát; vì tôi thấy như (mặc dù tôi kết luận ngay là tôi
bị sự hồi hộp do tưởng tượng đánh lừa)—tai tôi nghe thấy từ một khu nào đó xa xa trong
tòa nhà có tiếng mơ hồ giống hệt như tiếng vọng của âm thanh cánh cửa nứt toạc và bị giật
toang (nhưng chắc
chắn tiếng ấy bị chặn lại nghe không rõ) mà Ngài Launcelot đã mô tả rất đặc biệt. Không chút hồ nghi, chính sự trùng hợp
này đã làm tôi chú ý;
vì giữa tiếng phần phật của cửa sổ kính, cộng với những âm thanh lẫn lộn
thường có lúc cơn bão đang hoành hành, thì cái tiếng ấy chắc chắn
tự nó không có gì khiến tôi phải chú ý hoặc phân tâm cả. Tôi đọc tiếp truyện:
---
In sooth: in
truth, really
The phrase 'of a cataleptical character' means 'similar to
catalepsy'.
Catalepsy is a state of insensibility (i.e., not responding to stimulation) accompanied by bodily rigidity. This means that besides wasting away, Madeline also suffered seizures.
Catalepsy is a state of insensibility (i.e., not responding to stimulation) accompanied by bodily rigidity. This means that besides wasting away, Madeline also suffered seizures.
----
“Nhưng chàng Ethelred vô địch tài giỏi, giờ đã vào được bên trong cửa, tức tối giận dữ khi chàng không thấy có một dấu hiệu nào về nhà ẩn sĩ gian hùng ở đó; nhưng thế cho ông là một con rồng có vảy khổng lồ, miệng nó khạc ra lửa, ngồi canh trước tòa lâu đài bằng vàng, sàn làm bằng bạc, trên tường có treo cái khiêng bằng đồng sáng lóang trên có khắc chữ:
Ai bước được vào đây là người đã chinh phục;
Là người đã giết được con rồng, người ấy sẽ giành được cái khiêng.
Thế là Ethelred nhấc trượng của mình lên, đập vào đầu con rồng, làm nó ngã quỵ trước mặt chàng, nó dừng thở hơi thở hôi hám của nó ngay, rú lên một tiếng kinh khủng, thật chói tai, đến nỗi Ethelred phải lấy tay che lỗ tai lại để khỏi nghe tiếng rú kinh khiếp của nó, một thứ âm thanh người ta chưa hề nghe bao giờ.”
Đến đây tôi đột ngột dừng lại; bấy giờ tôi cảm thấy hết sức sửng sốt, vì rõ ràng tôi thực sự nghe thấy (dù tôi không thể nói tiếng ấy xuất phát từ hướng nào) từ xa xa vọng lại một tiếng rú hay tiếng rít lên thật chói tai và dai dẳng, hết sức kỳ lạ –y hệt tiếng rú kỳ quặc của con rồng mô tả trong truyện mà tôi có thể tưởng tượng trong đầu.
Dù chắc chắn lòng tôi đang nặng trĩu bởi vô vàn cảm xúc mâu thuẫn, chủ yếu là ngỡ ngàng và vô cùng kinh sợ, trước việc xảy ra sự trùng hợp lần thứ hai hết sức hi hữu này, tôi vẫn cố trấn tĩnh, để tránh kích động tính lo âu nhạy cảm của bạn tôi, nhỡ anh quan sát thấy. Tôi hoàn toàn không chắc anh ghi nhận những tiếng ấy; mặc dù, tôi tin chắc rằng trong vài phút vừa qua điệu bộ của anh đã thay đổi một cách kỳ lạ. Đang từ vị trí ngồi đối mặt với tôi, anh đã dần dần xoay ghế lại để có thể ngồi đối diện với cửa phòng, và vì thế tôi chỉ có thể nhận thức được một phần nào nét mặt của anh, dù tôi có thấy môi anh run lên như thể anh đang lầm bầm điều gì đó. Đầu anh gục xuống ngực, nhưng tôi biết anh không ngủ, vì tôi thoáng nhìn nghiêng thấy mắt anh mở to và nhìn chăm chăm. Thân thể của anh cử động không đồng nhất với ý tưởng này, bởi vì anh lắc lư nó qua lại một cách nhẹ nhàng, đều đặn, nhất quán. Sau khi ghi nhận tất cả những điều này thật nhanh, tôi lại đọc tiếp truyện của Launcelot, như sau:
“Và giờ đây, sau khi đã thoát ra khỏi cơn thịnh nộ kinh khủng của con rồng, nhà vô địch lại nghĩ về cái khiêng bằng đồng và về việc thoát khỏi chú thuật ếm lên nó, chàng đẩy xác con vật trước mặt qua một bên, và dũng cảm tiến bước trên lối đi dát bạc của tòa lâu đài đến chỗ có cái khiêng trên tường. Cái khiêng thực sự không nằm lì ở đó chờ chàng đến, mà rơi xuống sàn bạc ngay nơi chân chàng gây ra một tiếng rầm vang dữ dội.”
Miệng tôi vừa nói xong những lời này thì –như thể có một cái khiêng bằng đồng thực sự rơi xuống sàn nhà bằng bạc, tôi nghe thấy có tiếng vọng lại rõ mồn một, trong và rổn rảng như tiếng kim loại, mặc dù dường như tiếng đó bị chặn lại. Kinh hòang tột độ, tôi nhảy dựng lên, nhưng Usher vẫn tiếp tục ngồi lắc lư trên ghế không thay đổi. Tôi chạy đến chỗ anh ngồi. Đôi mắt anh nhìn thẳng phía trước mặt, và toàn bộ gương mặt anh cứng đờ ra như tượng đá. Nhưng khi tôi đặt tay lên vai anh, thì cả người anh giật mạnh lên; một nụ cười bệnh hoạn run run hé trên môi anh, và tôi thấy anh lầm bầm nho nhỏ những lời gì đó một cách vội vã, như thể anh không biết có sự hiện diện của tôi. Cuồi xuống sát bên anh, cuối cùng tôi cũng nghe được những lời kinh hoàng do anh thốt ra.
“Anh không nghe nó sao? –vâng, tôi nghe, và đã nghe hoài tiếng ấy. Kéo dài – dài – dài nhiều phút, nhiều giờ, nhiều ngày, tôi từng nghe nó –nhưng tôi không dám –ôi, hãy thương xót tôi, sao tôi khốn khổ thế này! --tôi không dám, không dám nói! Chúng ta đã chôn cô khi cô vẫn còn sống. Đâu phải tôi không nói các giác quan của tôi còn tốt? Giờ đây tôi nói cho anh biết tôi có nghe những cử động yếu ớt của cô ta trong quan tài trống. Cách đây nhiều ngày tôi có nghe thấy chúng, nhưng tôi không dám — không dám nói! Và giờ đây, tối nay –Ethelred, ha! ha! Phá cửa chỗ ở của nhà ẩn sĩ, và tiếng rú trước khi chết của con rồng, tiếng cái khiêng rơi xuống cái rầm! –hay nói cho đúng hơn, tiếng phá tung chiếc quan tài, vặn mở những cái nẹp sắt của ngục tù nhốt cô ấy, cùng với việc cô ấy phải vật vã trong cổng vòm cung nơi hầm mộ! Ôi, tôi biết bay đi đâu giờ? Liệu giây lát cô ấy có sẽ hiện ra đây không? Liệu cô ấy có sẽ vội vàng đến để mắng nhiếc tôi do tôi đã quá vội vàng hấp tấp? Có phải tôi đã nghe thấy tiếng chân cô ấy đi trên cầu thang? Tôi có phân biệt được tiếng tim cô đập nặng nề, hổn hển không? Tôi đúng là một thằng điên!” Nói rồi anh ta vùng đứng dậy thật nhanh*, gào lên những lời anh muốn nói như thể anh đang sắp từ bỏ linh hồn –“ Một thằng điên! Tôi nói cho anh biết hiện giờ cô ta đang đứng bên ngoài cánh cửa đó!”
Như thể năng lực siêu phàm của lời anh nói có ma thuật, ngay lúc ấy, cánh cửa cổ xưa đồ sộ làm bằng gỗ mun anh giơ tay chỉ vào từ từ bị đẩy lùi. Đó là vì luồng gió mạnh ùa vào khiến cửa mở –nhưng bên ngoài cánh cửa hiện ra bóng của cô Madeline Usher cao nghệu, phủ choàng vải liệm. Trên áo trắng cô mặc có dính máu, và những dấu vết cho thấy thân thể yếu đuối của cô đã phải vật lộn dữ dội để thóat ra. Trong giây lát cô vẫn đứng đó, run rẩy, người chao đảo qua lại – rồi với một tiếng kêu rên nho nhỏ, cô đổ sầm xuống người ông anh, và trong cơn đau đớn dữ dội cuối cùng trước khi chết, cô làm người anh cũng bị đổ nhào xuống lăn ra chết trên sàn nhà, một nạn nhân của nỗi kinh hoàng mà anh đã đoán biết sẽ xảy ra.
Tôi kinh hoàng bỏ chạy ra khỏi căn phòng và toà nhà ấy. Cơn bão đang cơn thịnh nộ, hoành hành cả vùng trong lúc tôi chạy băng ngang qua con đường cao đắp đất đá. Bất thình lình có một làn ánh sáng man dại rọi ngang con lộ, và tôi quay lại nhìn xem tia sáng kỳ lạ đó từ đâu tới, vì sau lưng tôi chỉ có tòa nhà đồ sộ và chiếc bóng rọi xuống hồ của nó. Ánh sáng tỏa ra đó là ánh trăng rằm, mới xuất hiện, màu đỏ như máu, giờ đây đang vằng vặc chiếu xuyên qua vết nứt trước đây khó lòng thấy được, vết nứt mà tôi đã có lần nói chạy dài như điện chớp từ nóc tòa nhà xuống tận chân tường. Trong lúc tôi dán mắt nhìn, vết nứt toạc ra thật nhanh –một ngọn gió xoáy ùa đến rất mạnh – toàn bộ vành trăng tròn tức khắc hiện ra trước mắt tôi – tôi choáng váng khi nhìn những bức tường sừng sững đổ xuống tan tành – có tiếng ầm ầm vang lên thật lâu như tiếng của cả ngàn dòng nước – và hồ nước sâu ẩm thấp nơi tôi đứng lầm lì im ỉm bị lấp đi bởi những mảng đổ vỡ của tòa nhà Usher.
1839
*To spring to his feet : to quickly or abruptly assume a standing position; to stand up quickly.