Tuesday, August 20, 2019

Ngôi Nhà Usher Bị Sụp Đổ -- (1) -- Truyện Ngắn Của Edgar Allan Poe (1809-1849)


Ngôi Nhà Usher Bị Sụp Đổ
                                               Truyện Ngắn Của Edgar Allan Poe (1809-1849)
Năm ấy vào một ngày thu ảm đạm, u ám, trời lặng như tờ, mây giăng nặng trĩu đầy trời, tôi cỡi ngựa băng qua một con đường quê hoang vu, và một chặp sau lúc trời bắt đầu chạng vạng, tôi chợt thấy xa xa ngôi nhà Usher buồn thảm.  Tôi không biết phải diễn tả thế nào –nhưng chỉ thoạt nhìn thấy căn nhà ấy thôi, tinh thần tôi đã chùng xuống chán nản không chịu được.  Tôi nói không chịu được, vì cảm giác ấy không hề giảm bớt bởi chút gì vui vui mà tâm hồn người thường cảm nhận được như trong thơ trước cảnh thiên nhiên khắc nghiệt nhất với nét hoang vu và kinh dị của nó. Tôi nhìn cảnh tượng trước mắt mình, trơ trọi chỉ có căn nhà, cảnh trí vườn tược đơn giản của nó, nhìn các bức tường lạnh lẽo, các cửa sổ trống trải như mắt người, vài bụi cỏ hoang, nhìn mấy thân cây bị mục nát ngã màu trắng—lòng tôi chán chường, chùng xuống không thể so sánh với một cảm giác nào trên đời cho phù hợp hơn cảm giác của một người tỉnh lại sau cơn mộng ảo vì thuốc phiện; cay đắng rơi vào cuộc sống đời thường, khi tấm mạng che mờ bị buông xuống, để lộ thực tại phủ phàng.  Có cái gì đó băng giá, lạnh lùng, một tâm tư chìm lắng, bệnh hoạn, tư tưởng áo não vô phương cứu chữa mà ngay cả sự phấn kích  của trí  tưởng tượng cũng không thể ra tay hành hạ để biến nó thành chút gì đó sáng lạn, rực rỡ.  Tôi dừng lại suy nghĩ xem đó là cái gì đã khiến tôi bàng hoàng khi lặng nhìn ngôi nhà Usher?  Đó là một điều bí ẩn hoàn toàn không tan biến được; và tôi cũng không thể vật lộn nổi với những tưởng tượng tối ám tràn ngập tâm hồn mình trong lúc đang trầm tư như thế.  Tôi buộc phải trở về với kết luận không thỏa đáng rằng, mặc dù chắc chắn các cảnh vật tự nhiên phối hợp lại có gây tác động đến chúng ta, nhưng khi ta phân tích sức tác động này, ta lại gặp phải những phối hợp vượt ngoài tầm hiểu biết sâu xa của mình.  Tôi nghĩ, có thể chỉ cần sắp xếp lại vài nét đặc trưng của cảnh vật, vài chi tiết trong bức tranh thôi, cũng đủ để làm thay đổi, hay có lẽ đủ để làm triệt tiêu, khả năng tạo ra ấn tượng sầu não ấy của ngôi nhà.  Với ý nghĩ đó tôi bắt tay vào hành động.  Tôi cho ngựa tiến đến gần cái hồ cạnh ngôi nhà, đứng sát mép hồ chênh vênh tối đen, nước hồ trong vắt như ánh gương không hề gợn tí sóng nào, và tôi nhìn xuống mặt hồ –nhưng tôi giật mình bàng hoàng hơn cả trước đó nữa trước những hình ảnh của cỏ dại, cành cây trông thật dễ sợ, và những khung cửa sổ trống trơn giống mắt người được sắp xếp lại và in bóng xuống mặt hồ.
Dù vậy tôi quyết định lưu lại tòa nhà thảm não này vài tuần.  Chủ nhà, anh Roderick Usher, từng là một trong những người bạn thân của tôi thời niên thiếu, nhưng đã nhiều năm rồi chúng tôi không gặp lại.  Tuy vậy, mới đây tôi nhận được một bức thư từ một miền xa xôi do anh gửi, khẩn khoản yêu cầu tôi phải đích thân trả lời.  Thư viết cho thấy anh trong tâm trạnh bất an lo lắng.  Người viết thư nói cơ thể anh đang mắc một thứ bệnh nặng, còn tâm thần thì rối loạn dằn vặt, và anh tha thiết muốn gặp tôi, vì tôi là người bạn thân duy nhất của anh, với mong mỏi là nhờ có tôi đem lại niềm vui, bệnh anh sẽ thuyên giảm.  Thư cứ nói như vậy, và còn nhiều nữa – qua lời khẩn khoản  của anh tôi thấy cả một tấm lòng tha thiết, khiến tôi không thể nào ngần ngừ mà phải làm theo lời anh yêu cầu dù tôi thấy yêu cầu ấy thật có một không hai.  
Mặc dù hồi còn nhỏ, hai đứa chúng tôi khá thân nhau, nhưng tôi biết rất ít về người bạn này của mình.  Anh ấy có thói quen rất khép kín, ít khi tâm sự.  Tuy vậy tôi được biết từ thời xa xưa tổ tông dòng họ nhà anh đã được người ta biết đến nhiều vì tính đa cảm kỳ đặc, biểu hiện qua các bức họa được đánh giá rất cao trong nhiều năm dài, và mới đây qua các đóng góp tài chính thầm lặng nhưng hết sức to lớn của họ cho công tác từ thiện, cũng như lòng nhiệt thành đam mê đối với phần tinh túy phức tạp của âm nhạc, có lẽ hơn cả lòng đam mê đối với cái đẹp chính thống mà người ta dễ nhận biết về khoa nghệ thuật này.    Tôi cũng biết được một sự kiện rất độc đáo là, mặc dù lúc nào họ cũng được tôn quý,  từ thân cây dòng họ nhà Usher chưa bao giờ mọc được một nhánh cây nào có sức chịu đựng dẻo dai; nói khác đi, toàn bộ gia đình chỉ là cha truyền con nối trực tiếp, và luôn luôn như vậy, hiếm khi thay đổi; nếu có thì thay đổi chỉ tạm thời ngắn ngủi.  Trong khi nghĩ trong đầu cách làm sao giữ gìn toàn mỹ phong cách của tòa nhà cho hòa hợp với tính cách cố hữu của người sống trong đó, và trong khi nghĩ về các ảnh hưởng có thể có qua hàng thế kỷ giữa tòa nhà và người cư trú ở đó, tôi cho là có lẽ chinh vì thiếu mất người từ một dòng họ khác chen vào tộc họ này mà kết quả là tòa nhà được truyền từ đời cha xuống đời con với cái tên khác thường, không rõ ràng là “Tòa nhà Usher” – một cái tên mà trong tư duy của những gia nhân làm việc cho dòng họ ấy ám chỉ cả tòa nhà lẫn người ở đấy.
     Tôi vừa nói rằng ảnh hưởng duy nhất của thí nghiệm có tính trẻ con của tôi –tức là việc nhìn xuống  mặt hồ nước--khiến ấn tượng có một không hai ban đầu càng mạnh mẽ sâu đậm thêm.  Chắc chắn khi biết mình nhanh chóng trở thành đồng bóng dị đoan –sao tôi lại không nên gọi cái tính đó như thế nhỉ? –điều ấy càng khiến tôi thêm đồng bóng dị đoan hơn nữa.  Lâu rồi tôi đã thấy đó là quy luật nghịch lý về tất cả các cảm xúc có cơ sở rùng rợn kinh dị.  Và có lẽ cũng chỉ vì lý do này, khi tôi ngước mắt lên nhìn lại ngôi nhà, sau khi đã thấy bóng của nó in xuống mặt hồ, đầu tôi lại tưởng tượng ra một điều kỳ lạ –một sự tưởng tượng khôi hài đến nỗi tôi chỉ muốn nói đến nó để cho thấy những xúc cảm dằn vặt tôi quả thật có tác động mạnh.  Trí óc tôi đã tưởng tượng nhiều đến độ khiến tôi phải thật sự tin rằng toàn bộ tòa nhà và vùng quanh nó được bao phủ bởi một làn khí, thứ khí không đến từ trên trời, mà tỏa ra từ cây cối mục rửa, từ bức tường xám và hồ nước lặng câm; một làn ám khí kỳ bí, u ám, nặng như chì, mờ ảo, khiến ta dã dượi. 
Xua đuổi khỏi tâm tư cái chỉ có nằm mơ mới thấy, tôi chú mục nhìn vào bộ mặt thực của tòa nhà.  Có lẽ nét chính của tòa nhà là nó quá sức cổ xưa.  Màu sắc theo thời gian đã phai nhòa đáng kể.  Rêu phong phủ đầy bên ngoài, buông thòng xuống chỗ mái nhà giáp vách tường giống như mạng nhện chằng chịt.  Dù vậy rêu phong chỉ là phần thêm vào ngoài việc ngôi nhà đang xuống cấp cực độ.  Tòa nhà không hề bị tróc hồ gì cả; các phần của tỏa nhà vẫn thích nghi được một cách hoàn hảo  với tình trạng mục rửa của từng viên gạch khiến nó có vẻ không nhất quán kỳ đặc.  Điều này làm tôi nhớ đến hình ảnh tòan bộ công trình bằng gỗ xưa quý giá đã bị mục nát qua bao năm dài trong các nhà mồ bỏ hoang mà làn khí bên ngoài không bao giờ lay động được.  Dù vậy ngoài dấu hiệu bị mục nát quá đỗi này, nhìn chung tỏa nhà vẫn không có vẻ gì là không chắc chắn.  Quan sát thật kỹ, ta có thể khám phá ra một vết rạn nứt rất khó thấy, hình dạng như tia chớp, xẹt qua xẹt lại ngay trước mặt tiền tòa nhà, chạy từ mái nhà xuống tận vách tường, cho đến khi mất hút trong nước hồ tăm tối thâm u.
Thấy những điều ấy, tôi cưỡi ngựa đi qua một con đường ngắn dẫn đến tòa nhà.  Một gia nhân đã đứng đó đợi để dẫn ngựa đi, còn tôi thì bước vào hành lang có mái vòm cung theo kiểu Gothic.  Một người hầu nam rón rén bước tới, lẳng lặng đưa tôi đi qua nhiều ngõ tăm tối, ngoằn ngèo để đến phòng của chủ.  Tôi không biết sao, nhưng phần lớn những gì tôi trông thấy trong khi đi như thế càng khiến tăng thêm những xúc cảm tôi đã nói ở phần trên.  Trong khi các sự vật chung quanh tôi –như nét chạm trổ trên trần nhà, các tấm thảm thâm u treo trên tường, sàn gỗ nâu thẫm, và những phần thưởng như áo giáp về công trạng dòng họ này đạt được lập lòe như trong mơ, rung rinh kêu rổn rảng theo bước chân tôi đi—thật sự chỉ là những thứ rất thân quen với tôi từ khi còn tấm bé, dù tôi ngần ngừ không muốn thừa nhận rằng đối với tôi chúng rất thân quen, tôi vẫn thắc mắc khi thấy những vật thông thường như vậy lại khêu gợi các điều hồ tư loạn tưởng hết sức lạ lùng.  Ở một cầu thang tôi gặp người bác sĩ của gia đình bạn tôi.  Tôi thấy gương mặt của ông ta lộ vẻ  pha lẫn chút gì đó vừa ma mảnh vừa bối rối.  Ông đi với tôi một khúc, rồi vượt qua tôi.  Người hầu khi ấy đã mở cửa phòng và đưa tôi vào gặp mặt chủ nhà.
Căn phòng tôi được đưa vào rất cao rộng.  Các cửa sổ đều dài, hẹp, với chóp nhọn, và chúng cách xa nền nhà làm bằng gỗ sồi màu đen đến nỗi người trong nhà không thể nào với tới được.  Những tia nắng đỏ tía yếu ớt hắt vào qua khung mắc cáo vừa đủ để lộ cho thấy các đồ vật đáng ghi nhận trong phòng; nhưng dù cố gắng thế mấy mắt cũng khó có thể thấy các góc phòng ở xa xa, hoặc các nét chạm trổ trên trần nhà hình vòm cung.  Trên tường treo những tấm màn dài đậm màu.  Căn phòng đầy đồ đạc cổ xưa, đã cũ mòn và không gây thoải mái.  Sách vở, nhạc cụ để lung tung, nhưng cũng không làm cho căn phòng thêm sinhđộng.  Tôi cảm thấy mình phải hít thở một thứ không khí buồn thảm.  Căn phòng bị bao trùm bởi một vẻ u ám, trang nghiêm, sâu lắng, vô phương cứu chữa.      
Khi tôi bước vào, Usher đang nằm soài người trên chiếc sofa liền đứng dậy, và chào đón tôi vồn vã đến nỗi, thoạt tiên tôi nghĩ rằng có phần thân thiện thái quá hoặc do sự cố gượng gạo của một người đã nhàm chán cuộc đời.  Tuy vậy khi liếc nhìn gương mặt của anh, tôi tin rằng anh hết sức thành thật.  Chúng tôi ngồi xuống, và trong giây lát khi anh lặng im, tôi nhìn anh, vừa thấy tội nghiệp vừa sững sờ.  Chắc chắn trước giờ chưa có ai, trong một thời gian thật ngắn ngủi, lại thay đổi khủng khiếp đến thế như Roderick Usher! Phải khó khăn lắm tôi mới nhận ra người đàn ông trước mặt tôi là người bạn thân thời thơ ấu của mình.  Dẫu sao nét mặt của anh lúc nào cũng đặc biệt.  Nước da tái mét như xác chết, con mắt to, long lanh va sáng quắc không mắt nào sánh bằng; đôi môi mỏng và rất nhợt nhạt cong lên tuyệt đẹp; chiếc mũi thanh như mũi của người mẫu Do Thái với cánh mũi mở rộng một cách kỳ lạ; cái cằm như được đúc khuôn thật khéo không nhô ra nhiều như nói lên sự thiếu năng lực về đạo đức; tóc của anh trông còn mềm và thưa hơn cả tơ nhện; tất cả những nét này, cùng  với vừng trán cao bên trên thái dương, tạo nên một gương mặt người ta khó lòng quên được.  Và bây giờ với những nét nổi bật ấy càng lộ rõ cùng hình ảnh chúng đã từng biểu hiện trong quá khứ có biết bao thay đổi đến nỗi tôi hồ nghi không biết mình đang nói chuyện cùng ai đây.  Giờ đây màu da tái mét như cái xác và ánh mắt long lanh sáng kỳ diệu của anh làm tôi giật mình, thậm chí kinh sợ nữa.  Cả mái tóc cũng để mọc một cách khổ sở, không hề  được để ý đến, và nó bồng bềnh phủ quanh gương mặt anh ta, hoang dại như tơ nhện, chứ không phải mọc tự nhiên.  Dù cố thế mấy tôi cũng không thể liên tưởng biểu hiện phức tạp đó với bất kỳ ý tưởng nào về con người đơn giản.
Về phong cách của người bạn tôi, điều tôi nhận thấy ngay là tính không trước sau như một của anh.      Không lâu sau, tôi nhận ra rằng tính thiếu nhất quán ấy nảy sinh từ một loạt những vật lộn yếu ớt và vô vọng nhằm khống chế thói sợ hãi, một nỗi lo bất an thái quá lúc nào cũng dằn vặt tâm tư.  Quả thực tôi đã chuẩn bị tinh thần để gặp bạn tôi với phong cách như thế, không phải chỉ do lá thư anh ấy gửi, mà chủ yếu do tôi nhớ lại một số nét anh có hồi nhỏ, và qua những kết luận tôi suy ra từ hình dạng và tính tình kỳ đặc của anh.  Anh khi thì linh hoạt vui vẻ, khi thì buồn rầu cau có.  Giọng anh nói thay đổi rất nhanh từ chỗ run rẩy bất quyết (khi sức sống -animal spirits₫full of vigor- dường như hoàn toàn ngưng trệ) đổi sang cách nói chính xác, đầy nhiệt huyết, cụt ngủn, chậm chạp, rõ ràng từng chữ môt cách gượng gạo, lời nói thốt ra chắc nịch, thăng bằng, ồn ồn vọng ra từ cổ họng, mà người ta thường thấy nơi kẻ say rượu nặng hay kẻ ngậm thuốc phiện bất trị đang lúc phê cao độ. 
Thế là anh lên tiếng nói về chuyến viếng thăm của tôi, về tấm lòng của anh tha thiết muốn gặp tôi, và về niềm an ủi mà anh mong tôi sẽ đem đến cho anh.  Cuối cùng (at some length) anh đề cập đến cái mà anh cho là bản chất của căn bệnh mình mắc phải.  Anh nói đó là điểm xấu nội tại vốn có trong gia đình anh, và anh vô vọng tìm cách điều trị cho hết bệnh ấy –ngay sau đó anh nói thêm đó là một thứ tâm bệnh chắc chắn chẳng bao lâu nữa sẽ khỏi.  Bệnh ấy biểu hiện qua một số những cảm giác kỳ lạ.  Khi anh mô tả tỉ mỉ, những biểu hiện này làm tôi quan tâm và rối trí thêm, mặc dù từ ngữ anh dùng và cách anh mô tả có vẻ tin được.  Anh khốn khổ vì giác quan của mình nhạy cảm đến mức bệnh hoạn.  Anh chỉ có thể ăn được thức ăn không thêm gia vị; anh chỉ mặc được áo quần may bằng một loại vải nào đó mà thôi; mùi của các thứ hoa khiến anh không chịu được; ngay cả một chút ánh sáng yếu ớt cũng khiến mắt anh như bị tra tấn; và chỉ có một vài âm thanh đặc biệt đó là âm thanh của đàn dây, mới không gợi lên cảm giác kinh hãi nơi anh.
Tôi thấy anh đúng là nô lệ cho một loài kinh dị bất thường.  Anh nói,Tôi sẽ chết.  Tôi phải chết trong ngôi nhà hoang phế tàn lụi này.  Như vậy đấy, tôi chắc chắn sẽ mất biệt chỉ như vậy đấy, không có cách nào khác.  Tôi sợ những chuyện xảy ra trong tương lai, không phải sợ chúng mà sợ hậu quả của chúngKhi nghĩ về bất kỳ một biến cố nào, dù thật nhỏ nhặt, không quan trọng chút nào, có thể tác động khiến tâm hồn tôi bồn chồn không chịu nổi, tôi đều run sợ.  Quả thật tôi không thấy ghê tởm cái nguy hiểm, trừ khi nó có ảnh hưởng tuyệt đối là gây kinh hoàng.  Trong tình trạng hoang mang bất an như vầy, tôi cảm thấy sẽ có lúc tôi phải từ bỏ hẳn sự sống và lý trí trong khi vật lộn với cái bóng kinh dị là nỗi Sợ Hãi.”
Ngoài ra, có lúc tôi được biết thêm một nét kỳ dị khác nữa của tâm thần anh bạn tôi qua các câu nói bóng gió tối nghĩa và rời rạc.  Anh ta bị ràng buộc bởi những tư tưởng mê tín nào đó in sâu trong đầu về căn nhà anh ở, và vì thế, trải qua nhiều năm, anh vẫn chưa bao giờ dám đi xa nhà –khi nói về một ảnh hưởng mà sức mạnh không thật của nó được diễn bày bằng những từ ngữ quá tối nghĩa đến độ không thể diễn đạt lại —một thứ ảnh hưởng mà những đặc điểm kỳ quái của hình dạng và bản chất tòa nhà của gia đình anh, với dấu ấn hằn sâu qua bao chịu đựng từ lâu, đã ngự trị cả tâm trí của anh, một thứ ảnh hưởng đến từ hình dạng các bức tường xám với tháp nhọn bên trên, từ hồ nước mờ tối mà cả toà nhà dọi bóng xuống, đã tác động lên đời sống tinh thần của anh.
Tuy thế, mặc dù với chút lưỡng lự, anh cũng nhìn nhận rằng phần lớn nỗi sầu muộn kỳ lạ khiến anh bị dằn vặt nhiều đều xuất phát một cách tự nhiên và rõ rệt từ chứng bệnh nặng và kéo dài đến độ quá mức chịu đựng, mà cô em gái thân yêu hiền dịu của anh mắc phải.  Qua bao năm dài cô ấy là người chia sẻ và là người thân cuối cùng, duy nhất của anh trên đời.  “Cái chết của cô ấy,” anh nói một cách cay đắng mà tôi không thể nào quên, “sẽ làm anh (một người tuyệt vọng, mong manh) trở thành người cuối cùng còn lại của gia tộc Ushers cổ xưa.”  Trong lúc anh nói, cô Madeline (tên của cô em anh bạn tôi) chầm chậm đi qua ở phía xa xa, và, không biết có tôi hiện diện, cô biến đi mất dạng.  Tôi hoàn toàn ngạc nhiên nhận biết có cô ấy, lòng không khỏi pha lẫn nỗi lo sợ, và tôi cũng không biết phải giải thích cảm giác ấy thế nào nữa.  Tôi thấy mình nặng nề đờ đẫn khi đưa mắt nhìn theo bước chân cô đi xa dần.  Cuối cùng khi cánh cửa đóng lại không còn thấy bóng cô nữa, tôi theo bản năng liền liếc sang nhìn gương mặt người anh trai của cô, nhưng anh đã lấy hai tay ôm mặt, và tôi chỉ có thể nhận biết nét nhợt nhạt xanh xao không bình thường phủ đầy những ngón tay buông thỏng để trôi những giọt nước mắt đầy cảm thương.              
Căn bệnh của cô Madeline từ lâu đã làm các bác sĩ phải vò đầu bó tay.  Họ đều chẩn đoán cô có biểu hiện lạ lùng là lúc nào cũng dửng dưng,  người héo mòn dần, và về mặt cảm xúc thì, tuy chỉ kéo dài trong chốc lát, hay rơi vào tình trạng đờ đẫn không phản ứng gì cả, chẳng khác nào người chết.    Cho đến hôm ấy, cô đã chịu đựng căn bệnh kiên trì như thế, và chưa phải nằm liệt giường, nhưng đến cuối đêm đó khi tôi đến viếng thăm, cô đã không còn sức chống chọi lại căn bệnh (như lời anh cô nói với vẻ âu lo khôn tả), và tôi được biết rằng lần tôi nhìn thấy cô vừa rồi có thể là lần cuối, và khó lòng thấy lại cô lần nữa khi cô còn sống.
Nhiều ngày sau đó cả Usher và tôi đều không nhắc đến tên cô; và trong suốt thời gian ấy tôi bận bịu tìm đủ mọi cách để giúp bạn mình vơi bớt sầu muộn.  Chúng tôi cùng nhau vẽ tranh, đọc sách; hoặc tôi lắng nghe anh chơi đàn guitar ngẫu hứng một cách man dại, như trong giấc mơ.  Cứ thế, tôi trở nên thân với anh hơn, đủ để tiếp cận cả những vùng sâu thẳm trong tâm tư của anh, để rồi tôi cay đắng nhận thấy mình chỉ nỗ lực vô ích khi cố làm cho tâm hồn tăm tối sầu muộn ấy vui lên; tựa như một tố chất tích cực nội tại đang cố gắng phủ lên toàn bộ mọi sự vật trong cả một thế giới tinh thần và vật chất lúc nào cũng tỏa ra vẻ u ám sầu muộn. 
Kỷ niệm về những giờ phút trang nghiêm tôi cùng người chủ căn nhà Usher ngồi với nhau sẽ luôn đeo đẳng tôi.  Nhưng tôi sẽ không tài nào diễn tả được chính xác bản chất của những điều anh nghiên cứu hay đắm mình vào và lôi cuốn hoặc dẫn dắt tôi vào đó.  Một lý tưởng vừa thú vị vừa hết sức hỗn loạn bao trùm khắp tất cả với vẻ sáng ngời như sulphur.  Những tiếng đàn lời ca ai điếu dài lê thê do anh ngẫu hứng chơi sẽ mãi mãi vang vọng bên tai tôi. Hơn thế, trí óc tôi vẫn còn khốn khổ vì không quên được sự lệch lạc méo mó của anh, cái đã làm cường điệu thêm nét hoang dại trong bản nhạc valse cuối cùng do Von Weber* sáng tác.
----
*Carl Maria Friedrich Ernst von Weber was a German composer, conductor, pianist, guitarist and critic, and was one of the first significant composers of the Romantic school. Weber's operas Der Freischütz, Euryanthe and Oberon greatly influenced the development of the Romantische Oper in Germany. Wikipedia
Những bức tranh vẽ ra từ trí tưởng tượng cầu kỳ của anh, những bức tranh với từng nét chấm phá khiến nó thành mơ hồ, làm tôi càng thêm rùng mình hồi hộp mà không biết vì sao mình lại rùng mình hồi hộp như vậy  -- những bức tranh (giờ đây hiện ra sống động trước mắt tôi) mà từ đó tôi không tài nào rút tỉa ra được, dù chỉ một phần nhỏ nhoi, để có thể diễn đạt thuần túy bằng chữ viết.  Với nét vẽ hoàn toàn đơn giản, với cách phác họa trần trụi của bạn tôi, anh đã làm người ta chú ý và bàng hoàng tột độ.  Nếu có ai vẽ được một tư tưởng, người đó hẳn phải là Roderick Usher.  Ít ra đối với tôi, với hoàn cảnh quanh tôi lúc ấy, khi nhìn những hình ảnh hoàn toàn trừu tượng mà con người đầy âu lo ấy sáng tạo ra trên khung vải, lòng tôi chợt dâng lên một cảm giác bàng hoàng vô cùng mãnh liệt, thứ cảm giác mà tôi  chưa bao giờ có khi lặng ngắm những nét mơ màng chắc chắn được nhiều người khen ngợi nhưng lại vô cùng cụ thể của Fuseli.*
---
*Henry Fuseli (Johann Heinrich Füssli 1741-1825): họa sĩ người Anh sinh tại Zurich, Thụy sĩ, bạn của William Blake, và là người cai quản Viện Mỹ Thuật Hoàng Gia từ năm 1804 đến năm 1825. (The Royal Academy of Arts tọa lạc trong tòa nhà Burlington trên đường Piccadilly ở Luân đôn.  Nó có vị trí độc đáo là một viện hoạt động độc lập,do tư nhân tài trợ, và được những họa sĩ và kiến trúc sư nổi tiếng lãnh đạo).
Một trong những tư tưởng thai nghén trong đầu anh bạn tôi, không dính líu nhiều đến tính trừu tượng trong tranh, cũng có thể diễn đạt bằng ngôn từ, dù biểu trưng như vậy rất kém. Một bức tranh nhỏ cho thấy phần bên trong một tầng hầm hoặc một đường hầm dài hun hút hình chữ nhật, với những bức tường thấp, nhẵn nhụi màu trắng, không hề gián đọan hay có một vật gì khác.
Một vài chi tiết thêm vào bức ký họa phần nào nói lên rằng cái hầm này nằm rất sâu dưới mặt đất. Toàn bộ cái hầm trải dài thăm thẳm ấy không hề có một lối ra nào cả, cũng không hề có một ngọn đưốc hay nguồn ánh sáng nhân tạo nào; vậy mà cái hầm ấy lại ngập đầy những tia chói chang, phủ kín nó với vẻ lộng lẫy kinh dị và không hài hòa chút nào.   
Tôi vừa nói về tình trạng bệnh về thần kinh thính giác của bạn tôi, cái đã làm anh không thể nghe nổi tất cả các thứ âm nhạc, ngọai trừ âm hưởng nào đó của một vài loại đàn dây.  Có lẽ chính vì tự hạn chế mình vào mỗi một loại đàn guitar mà anh mới có những tưởng tượng mạnh mẽ như vậy khi đàn. Nhưng tôi không thể dựa vào đó để giải thích lối chơi đàn ngẫu hứng một cách dễ dàng và say sưa của anh.  Qua nốt nhạc lời ca xuất phát nơi trí tưởng tượng hoang dại của anh (bởi vì đôi khi anh tự đặt ra lời ca có vần điệu), chúng hẳn phải là kết quả của một sự tự chủ và tập trung tinh thần cao độ mạnh mẽ như tôi đã nói, và tôi chỉ có thể quan sát được những khi anh tự tạo vẻ phấn khích thích thú nhiều nhất. Tôi dễ dàng nhớ lại lời của một trong số những bài anh trình bày một cách hết sức say sưa.  Có lẽ, khi hát lên những lời ấy, anh càng làm tôi ấn tượng thêm, bởi vì qua ý nghĩa bí ẩn sâu xa của khúc hát, lần đầu tiên tôi tưởng tượng thấy tôi đã nhận thức được rằng, về phần Usher, bạn tôi biết rõ vị thế cao tột nhưng chông chênh trên ngai vàng của anh. Những lời vần điệu ấy, mang tựa đề “Biệt Thự Có Ma,” như sau, nếu không nói là y hệt thế này:
I
Trên cánh đồng xanh nhất trong thung lũng của chúng ta
Nơi các thiên thần nhân từ trú ngụ
Trước đây từng có một lâu đài –
Một lâu đài sáng chói –ngẩng cao đầu
trong lãnh địa của nhà vua Tư Tưởng,
Tòa lâu đài đứng đó;
Thiên thần chưa bao giờ xoải cánh
choàng lên một tòa nhà nào đẹp bằng một nửa vẻ đẹp của lâu đài ấy.
II
Những lá cờ màu vàng, lộng lẫy, huy hoàng,
Phất phới trên nóc lâu đài
(Điều này, toàn bộ điều này, đã xảy ra
từ Thời Xưa xa lắm)
Vào ngày thân thương ấy
Khi làn gió nhẹ đong đưa,
Dọc theo các bức tường nhợt nhạt được tô điểm tựa như lông chim ,
Cuốn theo hương xưa ngọt ngào  
III
Những kẻ rong chơi nơi thung lũng hạnh phúc ấy
Có thể thấy qua hai cửa sổ sáng choang
Những bóng ma múa may nhịp nhàng
hài hòa theo tiếng đàn
lượn quanh ngai vàng
nơi vương đế ́́(Porphyrogene)* đang ngự
với vẻ lộng lẫy của bậ̣c trị vì một cõi.
IV
Qua khung cửa lâu đài xinh đẹp
rực sáng đầy hạt trai, hồng ngọc
lấp lánh, lấp lánh,
vọng vang, vọng vang không ngừng
chuỗi dài những tiếng Đồng Vọ̣ng,
với lời ca ngọt ngào đẹp tuyệt vời
tán dương sự khôn ngoan và tuệ gíác của vương đế.
V
Nhưng cái xấu, khoác áo sầu thảm,
tấn công lâu đài vương đế;
(Ôi, hãy khóc thương đi, vì vương đế
chẳng còn ngày mai nữa, hoang tàn!)
Và quanh tòa nhà của ngài
nét lộng lẫy một thời huy hoàng
giờ chỉ là câu chuyện một thời xa xưa bị chôn vùi 
mà người đời mơ hồ nhớ lại.
VI
Và giờ đây những lữ khách đi trong thung lũng
còn thấy qua các khung cửa sổ sáng đỏ ánh đèn
những chiếc bóng to múa lượn hư ảo
theo âm điệu trầm bổng chói tai;
cùng khi ấy, qua cánh cửa xanh xao,
một đám người gớm ghiếc ùa ra,
như dòng sông chảy xiết kinh dị,
rú lên khanh khách –môi chẳng mỉm cười.
Tôi nhớ rõ ý tưởng mà bài hát gợi lên đã đưa chúng tôi đến việc chia sẻ những suy nghĩ mà qua đó Roderick Usher hé lộ một ý kiến giờ đây tôi nhắc đến, không phải vì nó mới mẻ (vì những người khác cũng đã từng nói rồi), mà vì bạn tôi cứ khư khư bám lấy ý kiến đó.  Nói chung, ý kiến đó nói về việc các thực vật đều có khả năng cảm nhận.  Nhưng theo óc tưởng tượng lộn xộn của bạn tôi, ý kiến đó mang một đặc điểm táo bạo hơn nữa, và trong một số điều kiện, nó còn đi đến chỗ vô tổ chức nữa.  Tôi không biết dùng từ ngữ nào để diễn tả bạn tôi đã cố sức thuyết phục tôi về ý kiến đó một cách mạnh mẽ không kiềm chế được ra sao.  Tuy vậy, niềm tin của anh ta (như tôi đã từng nói bóng gió ở phần trước) có liên quan đến những tảng đá xám của căn nhà tổ tiên anh để lại. Anh tưởng tượng rằng nơi căn nhà anh ở có các điều kiện của khả năng cảm nhận ấy, thể hiện qua cách định vị trí những tảng đá, qua trật tự người ta sắp xếp chúng, cũng như qua kiểu những loại rêu phong mọc phủ lên đá, hay chỗ các cây cối bị mục nát đứng chung quanh –và bao trùm lên tất cả là sự bền bỉ không suy suyển của cách sắp xếp này cùng hình ảnh nó in xuống mặt nước hồ tĩnh lặng.  Anh bạn tôi nói rằng bằng chứng cho thấy các thực vật đều có khả năng cảm nhận có thể thấy được qua làn hơi cô đọng lại từ từ nhưng chắc chắn của nước hồ và của các bức tường.  Anh nói thêm kết quả có thể khám phá qua ảnh hưởng im lìm nhưng dai dẳng và khủng khiếp mà, trải qua nhiều thế kỷ, ảnh hưởng ấy đã đúc khuôn số phận của gia đình anh, làm anh trở thành như anh hiện giờ tôi thấy.  Những ý kiến như vậy không cần bình luận, và tôi sẽ không nói thêm làm gì. 
Những quyển sách chúng tôi cùng đọc –những quyển sách trải qua bao nhiêu năm đã uốn nắn một phần không nhỏ đời sống tinh thần của người bệnh– có thể nói cũng có nét tương tự với con người suy yếu ấy.  Chúng tôi cùng nhau đọc kỹ những tác phẩm như Ververt và Chartreuse của Gresset; Belphegor của Machiavelli; Thiên Đàng và Địa Ngục của Swedenborg; Cuộc Hành Trình Dưới Mặt Đất của Nicholas Klimm do Holberg viết; Thuật Xem Chỉ Tay của Robert Fludd, Jean D’Indagine, và De la Chambre; Cuộc Hành Trình Đi Vào Miền Xanh Lơ Xa Vời của Tieck; Thành Phố Mặt Trời của Campanella.  Quyển sách bạn tôi thích nhất là quyển sách nhỏ được ấn bản lần thứ tám tựa đề Directorium Inquisitorium của thầy tu Eymeric de Gironne thuộc dòng Dominican; rồi còn những đoạn trong quyển Pomponius Mela, nói về những thần linh sống trong rừng ham mê tửu sắc và sinh linh Aegipan giống loài dê có đuôi cá, quyển sách này Usher ngồi đọc mơ tưởng cả giờ không chán.  Nhưng anh vui thích nhất khi đọc quyển sách cực kỳ hiếm có và kỳ lạ được đóng thành sách từ bốn tờ giấy gấp lại thành tám trang kiểu Gothic –một cuốn sổ tay của nhà thờ đã bị lãng quên–tựa là Vigiliae Mortuorum secundum Chorum Ecclesiae Maguntinae.**
---
*Porphyrogene  
**Roderick Usher is portrayed, it will be remembered, as cultured, overbred, sensitive, learned in strange learning, and as a believer in many strange doctrines and ideas—a lover of many things which the world has agreed to pass by as valueless, but in which he found a sat­isfaction, perhaps akin to another satisfaction of which Poe has spoken as arising from a consciousness of solitary possession, as when one finds himself in some wild, where, even wrongly, he believes no other human foot has trod. Such a man would be a bibliophile—and so the poet portrayed him—but he would be a lover of rare books not merely for their rarity, but also for their unusual contents.
   
(Còn tiếp)

No comments:

Post a Comment

Note: Only a member of this blog may post a comment.