Trường Phái New York
Khác với các nhà thơ Beat và San Francisco, các thi sĩ thuộc
trường phái New York không bận tâm đến các vấn đề đạo đức nổi cộm, và nhìn
chung họ tránh không bàn đến các vấn đề chính trị. Họ là một nhóm nhà thơ có học vấn chính quy tốt
nhất.
Những nhà thơ thuộc nhóm này gồm John Ashbery, Frank O’Hara,
và Kenneth Koch đã gặp nhau khi còn là sinh viên tại Harvard. Họ là điển hình những người thành thị, sành điệu, không ngả theo một tôn giáo nào, dí dỏm, thông minh châm chọc, phức tạp mà
nhẹ nhàng tinh tế. Thơ của nhóm thi sĩ
này năng động, đầy chi tiết về sinh hoạt nơi thành thị, kỳ lạ, và gần như để lộ rõ một lòng tin đầy hoài nghi. Thành phố New York là trung
tâm nghệ thuật của Mỹ, là nơi sản sinh ra phong cách diễn đạt trừu tượng –
là nguồn cảm hứng chủ yếu của nhóm thơ này. Phần lớn các nhà thơ thuộc trường phái New York là những người đánh
giá các tác phẩm nghệ thuật, quản trị các viện bảo tàng nghệ thuật, hoặc làm việc cùng
với các họa sĩ. Có lẽ vì họ cảm nhận được nghệ thuật trừu tượng, không tin vào những hình dạng được thấy trong đời thường
và các ý nghĩa diễn bày rõ rệt, tác phẩm của họ thường khó hiểu, như trong các bài thơ
sáng tác về sau của John Ashbery (1927- ), một nhà thơ được ái mộ nhất vào cuối
thế kỷ 20.
Những dòng thơ lai láng của Ashbery ghi lại tư tưởng và
xúc cảm tuôn tràn qua tâm thức quá nhanh
không thể diễn bày rõ ràng trực tiếp được.
Bài thơ dài và sâu sắc của ông
tựa đề “Chân Dung Của Tôi Trong Tấm Gương Lồi”/“Self-Portrait in a Convex Mirror” (1975), bài thơ đã được ba giải thưởng lớn, lướt từ ý tưởng này qua
ý tưởng kia, và thường hồi quang tự chiếu:
Một chiếc tàu
vụt qua những màu sắc
vô danh cập bến.
Bạn cho phép những vến đề không liên quan
kéo lê thê vô tận một ngày
của bạn…
Khuynh Hướng Siêu Thực và Hiện Sinh
Trong quyển văn tuyển định nghĩa các trường phái mới của mình,
Donald Allen đã gồm cả nhóm thơ thứ năm mà ông không thể xác định rõ vì nhóm này
không có cơ sở địa lý rõ ràng. Nhóm thơ không rõ rệt này bao gồm các phong trào và thi sĩ Thử Nghiệm mới xuất
hiện, chủ yếu gồm các thi sĩ siêu
thực, diễn tả vùng vô thức qua các hình ảnh sinh động như trong giấc mơ và thơ của
các nữ thi sĩ hoặc các nhà thơ da màu thiểu số nở rộ trong những năm gần đây. Mặc dù bề ngoài nhóm này có sắc thái riêng biệt,
các nhà thơ siêu thực, ủng hộ nữ quyền, và các thi sĩ thuộc nhóm thiểu số đều có cảm nhận chung là họ phải tách họ ra khỏi văn học dòng chính.
Mặc dù T.S. Eliot, Wallace Stevens, và
Ezra Pound đã đưa vào thi ca Mỹ những thi pháp sử dụng biểu tượng vào những năm 1920, trường phái siêu thực, lực lượng chính của thi ca và tư tưởng Âu châu trong thế chiến thứ hai và sau đó, đã không bắt rễ tại Mỹ. Mãi đến những năm 1960, dưới áp lực của cuộc xung độ về chiến tranh Việt nam, phái siêu thực (cùng với phái hiện sinh) mới bắt đầu trở nên quen thuộc ở Mỹ.
Trong thập niên 1960, nhiều tác giả Mỹ như W.S. Merwin, Robert Bly, Charles Simic, Charles Wright, Mark Strand và nhiều người khác, đã hướng đến chủ nghĩa siêu thực Pháp và nhất là Tây Ban Nha, xuất phát từ cảm xúc ban sơ nguyên tuyền, các motif hình ảnh, và kiểu mẫu về sự nổi loạn hiện sinh, đi ngược lại lý trí.
Những nhà siêu thực như Mervin thường làm thơ dí dỏm, như:
"Thần thánh là những gì thất bại không thể làm người như chúng ta/ Nếu bạn thấy bạn không còn tin nữa thì hãy nới rộng đền thờ ra."
“The gods are what has failed to
Chủ nghĩa siêu thực mang tính chính trị của Bly lên án các giá trị mà ông cảm thấy đã can dự vào cuộc chiến Việt nam qua những bài thơ như "Rốt Lại Răng Mẹ Cũng Lộ Ra Trần Truồng"/“The Teeth Mother Naked at Last.” *
-----
Trong thập niên 1960, nhiều tác giả Mỹ như W.S. Merwin, Robert Bly, Charles Simic, Charles Wright, Mark Strand và nhiều người khác, đã hướng đến chủ nghĩa siêu thực Pháp và nhất là Tây Ban Nha, xuất phát từ cảm xúc ban sơ nguyên tuyền, các motif hình ảnh, và kiểu mẫu về sự nổi loạn hiện sinh, đi ngược lại lý trí.
Những nhà siêu thực như Mervin thường làm thơ dí dỏm, như:
"Thần thánh là những gì thất bại không thể làm người như chúng ta/ Nếu bạn thấy bạn không còn tin nữa thì hãy nới rộng đền thờ ra."
“The gods are what has failed to
become of us / If you find you no
longer believe enlarge the temple.”
Chủ nghĩa siêu thực mang tính chính trị của Bly lên án các giá trị mà ông cảm thấy đã can dự vào cuộc chiến Việt nam qua những bài thơ như "Rốt Lại Răng Mẹ Cũng Lộ Ra Trần Truồng"/“The Teeth Mother Naked at Last.” *
-----
“The Teeth Mother Naked at Last” is a long, frequently subjective, meditation on the American involvement in the Vietnam War. It describes the “harm” the war has done to America and to Americans “inwardly.” The poem is divided into seven numbered and self-contained sections ranging in length (in the final Selected Poems version) from eight to fifty-three lines. Each section is divided into stanzas of uneven lengths. Several sections are further divided into subsections, separated by asterisks, and section 3 contains two paragraphs of prose. One part of section 2 was originally published independently, in quite different form, in The Nation (March 25, 1968), and another part of this section originally appeared in Robert Bly’s play, The Satisfaction of Vietnam (1968).
The title refers to one of the “mothers” that make up the mystical cult of the Great Mother, which first appeared in ancient times. The Teeth or Stone Mother attempts to destroy consciousness and spiritual growth and has come to stand for the destruction of the psyche in Jungian psychology.
The poem begins with airplanes and helicopters (“death-bees”) lifting off from the decks of ships and flying over Vietnamese villages to bomb the people huddled in the “vegetable-walled” huts. This massive destruction, without mercy even for innocent children, is seen as the end result of what has happened in the American political system. The voices of soldiers are heard ordering the killing of “anything moving,” and the reed huts of the Vietnamese villagers are set afire. The war, with its wanton death and destruction, is defended and even rationalized by political and religious leaders and political and religious institutions back home in America. These rationalizations are “lies,” however, and these lies “mean that the country wants to die.” Things have already gone so far that even objective truths (such as the name of the capital of Wyoming, the number of acres of land in the Everglades, and the time the sun sets on any given day) now can be lied about by the president and the attorney general. This kind of corruption of the facts, in addition to the travesties and literal horrors of the war, are detailed primarily in the first three sections of the poem. “This,” readers are told, “is what it’s like for a rich country to make war.”
The transitional fourth and fifth sections suggest a literal, structural, and thematic turn in the poem. The fifth and shortest section begins with the most pertinent question of the whole poem: “Why are they dying?” Since, as has been seen and shown, there is no rational reason given, nor any answer available, the remaining sections of the poem move beyond the rational, into the mystical or metaphysical realms, in an attempt to deal with the atrocities inherent in war psychologically. In this sense, although the clear focus of the poem remains fixed on the Vietnam War, the poem expands this focus to a treatment of the psychological accoutrements of war in general.
The sixth section of the poem, which describes the burning of innocent children, is the most graphic and the most condemnatory. The speaker finds himself suddenly forced backward through the evolutionary chain, to the consciousness of his “animal brain,” which allows for a more emotional and less intellectual way of dealing with existence. Such a place in the psyche is also the place where poetry has its source and, thus, this movement down into the depths of the psyche prepares the reader for the poetic paean of the last two sections of the poem.
At the beginning of the seventh section the speaker says that he wants to sleep without being awakened. In his apocalyptic dream vision, from “waters” deep beneath the surface of self and consciousness, “the Teeth Mother, naked at last,” rises up and points to the possibility of both a political and a psychic renewal, one which may vitiate the problems posed both by the war in Vietnam and...
Published separately in 1970, then later incorporated into Sleepers Joining Hands (1973), The Teeth Mother Naked at Last has been described as one of the best antiwar poems written in the twentieth century. Bly’s strategy in the composition of the poem was to undermine somehow the sterility of the language the United States used—both in its nightly news broadcasts and on its political lecterns—when discussing the Vietnam War and the issues surrounding it. He did this by revealing these familiar phrases and familiar political statements to be false.
After a series of descriptive images from the war in Indochina, descriptions which move from the striking—almost beautiful—to the increasingly bloody and grotesque, Bly tells his reader, “Don’t cry at that.” Would one cry at other natural phenomena, he asks, such as storms from Canada or the changing of the seasons? The language used publicly to discuss the war was similar to the language reserved for inevitable, natural things. Bly forces the reader to admit that fact by exposing the harsher reality of war.
The language Bly uses was drawn from many sources: the phrases of the military (“I don’t want to see anything moving. . . . [T]ake out as many structures as possible”); the standard phrases of columnists and television commentators; and the rhetoric of politicians, especially President Lyndon B. Johnson, whose Texas drawl Bly mimics by using hyphens. Then Bly, almost in a rage, warns that all such language conceals the truth. He catalogs those who lie, from the ministers to the reporters to the professors to the president, equating their willingness to lie with a kind of societal death wish. Bly sees in Americans’ capacity to kill, and to kill in such a sterile, casual way, a profound psychic rift, a demonstration of their own spiritual inadequacy.
The myth embodied in the title of the poem is also the myth by which Bly understood that spiritual poverty. The myth of the Great Mother, first discussed at length by Jung, and later by several prominent anthropologists including Claude Levi-Strauss, reveals the Western attempt to disavow the more feminine aspect of the psyche and embrace the masculine, that is, logical, instead.
In an essay titled “I Came Out of the Mother Naked,” which appears as a section of Sleepers Joining Hands—the section immediately after The Teeth Mother Naked at Last —Bly argues that the Great Mother, the...
---
Chính vì chúng ta có cách đóng gói mới cho món sò xông
khói
Nên các hố bom mới xuất hiện trên đồng ruộng.
It’s because we have new
packaging for smoked
oysters
that bomb holes appear in the
rice paddies.
Ảnh hưởng của phái siêu thực càng lan rộng thì thơ siêu thực càng trở nên thâm
trầm sâu sắc, như bài thơ Charles Wright mô tả trong "Thơ
Mới”/“The New Poem” (1973):
Nó không muốn quan tâm đến nỗi buồn đau của chúng ta
Nó không muốn an ủi con cái chúng ta
Nó không thể giúp chúng ta.
Thơ siêu
thực của Mark Strand, giống như thơ của Mervin, thường ảm đạm. Thơ này nói lên một sự trống trải cùng cực. Giờ đây khi đã chán chường các truyền
thống, các giá trị và niềm tin, nhà thơ chỉ còn lại linh hồn trống trải như hang động của chính mình:
Tôi có chìa khóa
nên tôi mở cửa và đi vào
Tối đen và tôi đi vào
Càng thêm tối đen và tôi đi vào.
I have a key
so I open the door and walk in.
It is dark and I walk in.
It is darker and I walk in.
Các Nữ Thi Sĩ và Phong Trào Phụ Nữ
Văn học Mỹ, cũng như văn học ở phần lớn các xứ khác, từ lâu đã được đánh giá trên những tiêu
chuẩn không hề cứu xét đến các đóng góp của giới phụ nữ.
Tuy vậy vẫn có nhiều nhà thơ nữ nổi bật trên văn đàn Mỹ. Không phải tất cả những nhà thơ này đều theo
phong trào phụ nữ, và chủ đề trong thơ họ không nhất thiết lúc nào cũng nói lên
mối quan tâm của phu nữ. Ngoài ra, những
khác biệt về vùng miền, về chính trị và sắc tộc cũng làm thơ họ khác nhau. Các nhà thơ nữ này gồm có Amy Clampitt,
Rita Dove, Louise Glück, Jorie Graham, Carolyn Kizer, Maxine Kumin, Denise Levertov,
Audre Lorde, Gjertrud Schnackenberg, May Swenson,và Mona Van Duyn.
Trước 1960, phần lớn các nhà thơ nữ đều
bám lấy lý tưởng lưỡng tính với niềm tin giới tính không gây ra ảnh hưởng khác
biệt trước một tác phẩm nghệ thuật tuyệt hảo. Cách
nhìn không phân biệt giới tính này, về mặt ảnh hưởng, đã là hình thái ban đầu
của phong trao phụ nữ và nó đã cho phép phu nữ đòi quyền bình đẳng với nam
giới. Đến cuối thập niên 1960, phụ nữ Mỹ
--nhiều người rất tích cực đấu tranh cho dân quyền và phản đối chiến
tranh Việt nam, hoặc chịu ảnh hưởng của phong trào chống lại văn hóa –đã bắt đầu nhận thấy họ bị đứng ngoài rìa.
Quyển sách nói thẳng tựa đề Bí Ẩn
Phụ Nữ/The Feminine Mystique (1963) của Betty Friedan, xuất bản năm Sylvia Plath tự tử công kích việc xã hội đánh giá thấp vị trí của
phụ nữ. Một quyển sách đi vào lịch sử khác là quyển Chính Trị Tính Dục/Sexual Politics (1969) của Kate Millett đặt vấn đề các tác phẩm do nam giới viết đều đầy dẫy thái độ chỉ trích và coi thường phụ nữ.
Vào thập niên 1970, sau khi Tổ Chức Phụ Nữ Quốc Gia (National Organization of Women) được thành lập năm 1966, một làn sóng phê bình của phong trào phụ nữ lại dấy lên. Quyển Văn Chương Của Riêng Họ/A Literature of Their Own (1977) của Elaine Showalter đã nêu lên một truyền thống quan trọng của các nữ tác giả người Anh và người Mỹ. Tác phẩm Người Đàn Bà Điên Trong Gầm Thượng/The Madwoman in the Attic (l979) của Sandra Gilbert và Susan Gubar đã truy lần theo vết tích của thái độ chỉ trích coi thường phụ nữ trong các tác phẩm cổ điển Anh, và tìm hiểu ảnh hưởng của thái độ đó trong các tác phẩm do nữ văn sĩ viết, như tác phẩm Jane Eyre của Charlotte Brontë. Trong tiểu thuyết ấy, một người vợ đã hóa điên vì cách đối xử tệ bạc của người chồng và bị nhốt trong gầm thượng. Gilbert và Gubar đã ví tiếng nói bị bóp nghẹn của phụ nữ với hình ảnh nhân vật nữ bị đàn áp này.
Trong làn sóng phản đối thứ hai, những nhà phê bình theo phong trào phụ nữ đã thách thức cách đánh giá các tiểu thuyết từng được xem là vĩ đại, trên cơ sở cho rằng các tiêu chuẩn thẩm mỹ không phải đều vĩnh cửu và phổ quát, mà rất tự phát, tùy thuộc vào từng nền văn hóa, và có do nam giới nắm quyền quyết định hay không. Vào thập niên 1970 phong trào phụ nữ đã trở thành một lực lượng mạnh mẽ trong việc đấu tranh đòi quyền bình đẳng, không chỉ trong văn chương mà về văn hóa nói chung. Quyển Tuyển Tập Các Tác Phẩm Văn Chương Của Nữ Sĩ ( Nhà Xuất Bản Norton) /The Norton Anthology of ̉Literature by Women (1985) cua Gilbert và Gubar đã giúp việc học tập nghiên cứu dòng văn học này được dễ dàng, và người ta bật đầu quan tâm đến truyền thống của giới phụ nữ. Trong số những nữ thi sĩ có ảnh hưởng mạnh trước Sylvia Plath và Anne Sexton còn có Amy Lowell (1874-1925) với những bài thơ đẹp gợi cảm tuyệt vời. Bà chủ biên những tập văn tuyển gồm các tác giả thuộc trường phái Hình Ảnh có ảnh hưởng nhiều và giới thiệu thơ mới của Pháp và thơ Trung quốc vào thế giới văn chương Anh. Tác phẩm của bà ca ngợi tình yêu, khát vọng, và nét đẹp tâm linh của con người và thiên nhiên. H.D. (1886-1961), bạn của Ezra Pound và William Carlos Williams, người đã được Sigmund Freud phân tích tâm lý. đã sáng tác những bài thơ tình lấy cảm hứng từ thiên nhiên và các tác phẩm cổ điển Hy lạp cùng các vở kịch thử nghiệm. Thơ huyền bí của bà ca ngợi các vị nữ thần. Những đóng góp của Lowell và H.D., cùng các nữ thi sĩ khác như Edna St. Vincent Millay mãi đến bây giờ mới được công nhận trọn vẹn.
(Còn tiếp)
Vào thập niên 1970, sau khi Tổ Chức Phụ Nữ Quốc Gia (National Organization of Women) được thành lập năm 1966, một làn sóng phê bình của phong trào phụ nữ lại dấy lên. Quyển Văn Chương Của Riêng Họ/A Literature of Their Own (1977) của Elaine Showalter đã nêu lên một truyền thống quan trọng của các nữ tác giả người Anh và người Mỹ. Tác phẩm Người Đàn Bà Điên Trong Gầm Thượng/The Madwoman in the Attic (l979) của Sandra Gilbert và Susan Gubar đã truy lần theo vết tích của thái độ chỉ trích coi thường phụ nữ trong các tác phẩm cổ điển Anh, và tìm hiểu ảnh hưởng của thái độ đó trong các tác phẩm do nữ văn sĩ viết, như tác phẩm Jane Eyre của Charlotte Brontë. Trong tiểu thuyết ấy, một người vợ đã hóa điên vì cách đối xử tệ bạc của người chồng và bị nhốt trong gầm thượng. Gilbert và Gubar đã ví tiếng nói bị bóp nghẹn của phụ nữ với hình ảnh nhân vật nữ bị đàn áp này.
Trong làn sóng phản đối thứ hai, những nhà phê bình theo phong trào phụ nữ đã thách thức cách đánh giá các tiểu thuyết từng được xem là vĩ đại, trên cơ sở cho rằng các tiêu chuẩn thẩm mỹ không phải đều vĩnh cửu và phổ quát, mà rất tự phát, tùy thuộc vào từng nền văn hóa, và có do nam giới nắm quyền quyết định hay không. Vào thập niên 1970 phong trào phụ nữ đã trở thành một lực lượng mạnh mẽ trong việc đấu tranh đòi quyền bình đẳng, không chỉ trong văn chương mà về văn hóa nói chung. Quyển Tuyển Tập Các Tác Phẩm Văn Chương Của Nữ Sĩ ( Nhà Xuất Bản Norton) /The Norton Anthology of ̉Literature by Women (1985) cua Gilbert và Gubar đã giúp việc học tập nghiên cứu dòng văn học này được dễ dàng, và người ta bật đầu quan tâm đến truyền thống của giới phụ nữ. Trong số những nữ thi sĩ có ảnh hưởng mạnh trước Sylvia Plath và Anne Sexton còn có Amy Lowell (1874-1925) với những bài thơ đẹp gợi cảm tuyệt vời. Bà chủ biên những tập văn tuyển gồm các tác giả thuộc trường phái Hình Ảnh có ảnh hưởng nhiều và giới thiệu thơ mới của Pháp và thơ Trung quốc vào thế giới văn chương Anh. Tác phẩm của bà ca ngợi tình yêu, khát vọng, và nét đẹp tâm linh của con người và thiên nhiên. H.D. (1886-1961), bạn của Ezra Pound và William Carlos Williams, người đã được Sigmund Freud phân tích tâm lý. đã sáng tác những bài thơ tình lấy cảm hứng từ thiên nhiên và các tác phẩm cổ điển Hy lạp cùng các vở kịch thử nghiệm. Thơ huyền bí của bà ca ngợi các vị nữ thần. Những đóng góp của Lowell và H.D., cùng các nữ thi sĩ khác như Edna St. Vincent Millay mãi đến bây giờ mới được công nhận trọn vẹn.
(Còn tiếp)
90
No comments:
Post a Comment
Note: Only a member of this blog may post a comment.